Phân tích chiến lược phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế xanh
Bài viết dưới đây sẽ chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu chủ yếu trong phát triển công nghiệp của Quảng Ninh, làm cơ sở đề xuất các giải pháp chiến lược.

Tỉnh Quảng Ninh là một trong những địa phương có vai trò chiến lược trong cấu trúc phát triển công nghiệp của khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với xuất phát điểm là "thủ phủ than", địa phương này đã và đang triển khai một quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp mang tính cách mạng – từ khai khoáng nặng sang công nghiệp xanh, công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ gắn với chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh những lợi thế rõ nét, công nghiệp Quảng Ninh vẫn đang đối mặt với một số hạn chế và thách thức nhất định trong quá trình phát triển bền vững và hiện đại hóa.
Sau bài viết đầu tiên: Bài 1: Phân tích điểm mạnh - điểm yếu phát triển công nghiệp Quảng Ninh, bài viết thứ 2 của TS.LS, Doanh nhân Phạm Hồng Điệp sẽ tập trung phân tích những điểm mạnh và điểm yếu chủ yếu trong phát triển công nghiệp của tỉnh, làm cơ sở đề xuất các giải pháp chiến lược trong thời gian tới.
1. LỢI THẾ CHIẾN LƯỢC TRONG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
Vị trí địa kinh tế và năng lực kết nối vùng
Quảng Ninh nằm tại trung tâm của hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, đồng thời là cửa ngõ kết nối trực tiếp giữa thị trường ASEAN và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
Vị trí này không chỉ tạo điều kiện cho liên kết sản xuất vùng mà còn giúp Quảng Ninh trở thành trung tâm logistics quốc tế. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng giao thông đa phương thức gồm đường bộ cao tốc, cảng nước sâu (Cái Lân, Hải Hà), sân bay quốc tế Vân Đồn, đường sắt liên vận quốc tế và quy hoạch tuyến Hải Phòng – Hạ Long – Móng Cái với tổng vốn hơn 7 tỷ USD sẽ tạo lực kéo hạ tầng công nghiệp theo chuẩn toàn cầu.
Trong đó:
Đường bộ: Hệ thống cao tốc hiện đại gồm các tuyến: Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái, Hạ Long – Hải Phòng – Hà Nội, rút ngắn thời gian di chuyển từ Quảng Ninh đến các trung tâm kinh tế lớn phía Bắc. Kết nối trực tiếp các khu công nghiệp trọng điểm như KCN Đông Mai, KCN Hải Yên, KCN Texhong Hải Hà với các cảng biển và cửa khẩu.
Đường biển: Cảng biển nước sâu Cái Lân – cảng loại I, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn, phục vụ trực tiếp xuất nhập khẩu công nghiệp. Cụm cảng Hải Hà – Vạn Gia (gồm cảng tổng hợp Vạn Ninh đang xây dựng) – Móng Cái đang được đầu tư mở rộng, nâng cao năng lực logistics khu vực biên giới.
Đường hàng không: Sân bay quốc tế Vân Đồn hiện đại, hoạt động thương mại và hàng hóa, kết nối Quảng Ninh với các trung tâm kinh tế, tài chính lớn trong nước và khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Góp phần thu hút đầu tư công nghệ cao, công nghiệp có yêu cầu logistics cao.
Đường sắt: Tuyến đường sắt Hạ Long – Cái Lân – Yên Viên đang được quy hoạch phát triển, phục vụ vận chuyển hàng hóa công nghiệp. Hướng kết nối đường sắt với Trung Quốc qua Móng Cái sẽ mở rộng không gian giao thương quốc tế. Cụ thể, dự án tuyến đường sắt Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái: dài khoảng 187km, khổ đường 1.435mm, điện khí hóa, vận tải hành khách và hàng hóa; tốc độ tàu khách 160km/giờ, tàu hàng khoảng 120km/giờ. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 7 tỷ USD; đầu tư sau năm 2030.
Hạ tầng khu công nghiệp phát triển bài bản
Quy hoạch giai đoạn 2021–2030 xác định phát triển 23 KCN và 5 KKT với tổng diện tích 378.000 ha. Các khu như Đông Mai, Sông Khoai, Bắc Tiền Phong (DEEP C), Hải Hà đều đã hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và sẵn sàng tiếp nhận dự án quy mô lớn, công nghệ cao. Mô hình tích hợp công nghiệp – đô thị – dịch vụ ngày càng rõ nét, thúc đẩy Quảng Ninh trở thành một cực tăng trưởng công nghiệp xanh tại miền Bắc.
Môi trường đầu tư cải cách và công nghệ số
Quảng Ninh 7 năm liên tiếp (2017–2023) đứng đầu PCI toàn quốc. Chính quyền địa phương vận hành hiệu quả mô hình “chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”, đẩy mạnh số hóa dịch vụ công mức độ 4 và cải cách một cửa, một thủ tục – minh bạch – điện tử hóa. Đây là yếu tố quyết định tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư FDI.

NHỮNG HẠN CHẾ NỘI TẠI VÀ THÁCH THỨC TRONG CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP
Cơ cấu ngành còn lệ thuộc vào khai khoáng
Mặc dù tỉnh đã có những bước đi tái cơ cấu ngành than theo hướng giảm phát thải và nâng cao giá trị chế biến sâu, song tỷ trọng khai thác than và ngành công nghiệp năng lượng truyền thống vẫn chiếm ưu thế lớn trong GRDP công nghiệp. Hoạt động khai thác lộ thiên, nhiệt điện than và xi măng tại Cẩm Phả, Đông Triều, Uông Bí tiếp tục gây áp lực lên môi trường và làm giảm sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư công nghệ cao.
Theo Báo Quảng Ninh (2024), tỉnh đã đưa ra lộ trình đóng cửa một số mỏ than lộ thiên trước 2030 và chuyển đổi sang mô hình sử dụng đất hậu khai thác vào công nghiệp sạch – dịch vụ – đô thị sinh thái. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này đòi hỏi nguồn lực lớn và sự đồng bộ về thể chế, công nghệ và vốn đầu tư.
Thiếu vắng hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ và liên kết vùng
Mô hình công nghiệp tại Quảng Ninh hiện còn đơn lẻ, thiếu các chuỗi liên kết giá trị và mạng lưới doanh nghiệp phụ trợ. Tỷ lệ nội địa hóa thấp trong các ngành điện tử, cơ khí chính xác, thiết bị phụ tùng cho công nghiệp ô tô – năng lượng tái tạo khiến các doanh nghiệp FDI vẫn phụ thuộc mạnh vào nhập khẩu nguyên vật liệu.
So với các địa phương như Bắc Giang hay Hải Phòng, Quảng Ninh chưa hình thành được cụm liên kết ngành (industrial clusters) đủ mạnh để nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng và thu hút các doanh nghiệp công nghiệp nền tảng.
Hạn chế về nguồn nhân lực kỹ thuật và quản trị công nghiệp
Tỉnh đang thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ lao động kỹ thuật cao, đặc biệt trong các lĩnh vực mới như công nghệ sinh học, tự động hóa, sản xuất thông minh. Các cơ sở đào tạo nghề chưa gắn kết chặt với nhu cầu của doanh nghiệp, còn thiếu chương trình đào tạo theo mô hình dual-training.
Mặc dù có định hướng hình thành “tam giác đào tạo kỹ năng cao” Quảng Ninh – Hải Phòng – Hải Dương, nhưng chưa có trung tâm kỹ thuật vùng đủ năng lực như mô hình Samsung Bắc Ninh.
Sự thiếu đồng bộ trong phát triển hạ tầng khu công nghiệp
Một số KCN như Hải Hà, Đông Triều còn gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng, cấp điện – nước – viễn thông ổn định và đấu nối giao thông. Đặc biệt, các KCN vùng biên như Móng Cái, Đầm Hà tỷ lệ lấp đầy còn thấp, chưa tạo được động lực lan tỏa phát triển công nghiệp khu vực phía Đông.
Áp lực lớn từ chuyển đổi mô hình tăng trưởng xanh và tuần hoàn
Việc triển khai KCN sinh thái, mô hình kinh tế tuần hoàn còn ở giai đoạn thử nghiệm. Thiếu hành lang pháp lý rõ ràng và cơ chế tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh là rào cản lớn. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các cụm công nghiệp chưa có năng lực về đổi mới công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số và tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường quốc tế.

Sản xuất dầu ăn tại Công ty TNHH Dầu thực vật Cái Lân (Khu Công nghiệp Cái Lân, thành phố Hạ Long). Nguồn: quangninh.gov.vn
III. GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI
Hoàn thiện thể chế quy hoạch công nghiệp và mô hình quản trị KCN
Quảng Ninh cần tích hợp quy hoạch các khu kinh tế, khu công nghiệp và cụm công nghiệp vào quy hoạch tỉnh theo hướng phân vùng chức năng rõ ràng, gắn với định hướng kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Việc sớm ban hành Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng đất KCN và cơ chế hậu kiểm nhà đầu tư sẽ nâng cao chất lượng phát triển không gian công nghiệp.
Đồng thời, tỉnh nên nghiên cứu mô hình “Ban quản lý KCN chuyên trách cấp vùng” như ở Bình Dương hay Đồng Nai để điều phối hiệu quả hạ tầng, lao động và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp FDI và nội địa.
Tăng tốc đầu tư hạ tầng công nghiệp kết nối vùng – quốc tế
Ưu tiên đầu tư các tuyến kết nối giao thông giữa KCN với cảng biển (Hải Hà, Cái Lân), sân bay Vân Đồn và đường sắt liên vận quốc tế. Đặc biệt, tuyến đường sắt Hải Phòng – Hạ Long – Móng Cái cần được đưa vào danh mục ưu tiên quốc gia trong Chiến lược kết nối logistics giai đoạn 2025–2035.
Xây dựng hệ thống hạ tầng dùng chung tiêu chuẩn quốc tế trong KCN: điện năng chất lượng cao, xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn loại A, kho vận thông minh, hệ thống viễn thông tốc độ cao, an ninh mạng và dịch vụ số phục vụ sản xuất thông minh (smart manufacturing).
Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trình độ cao
Thành lập Trung tâm Kỹ thuật và Đào tạo nghề vùng Đông Bắc (dạng mô hình PPP), có liên kết với các tập đoàn như Samsung, Jinko Solar, Foxconn để đào tạo theo nhu cầu thực tế. Tập trung vào kỹ năng kỹ thuật số, quản lý chuỗi cung ứng, công nghệ môi trường, năng lượng tái tạo và tự động hóa.
Khuyến khích mô hình dual-training (học trong doanh nghiệp – học tại trường), đồng thời mở rộng hệ thống trường nghề chất lượng cao tại Quảng Yên, Hạ Long và Móng Cái.
Cơ chế ưu đãi có chọn lọc và tăng cường thu hút FDI công nghệ cao
Áp dụng cơ chế ưu đãi có trọng tâm: chỉ ưu đãi cho ngành sử dụng công nghệ sạch, phát thải thấp, sử dụng nhiều lao động kỹ thuật hoặc có đóng góp cho chuỗi cung ứng vùng. Kết hợp các công cụ tài chính mới như tín dụng xanh, quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, quỹ đào tạo nghề theo đơn đặt hàng doanh nghiệp.
Tập trung thu hút các ngành chiến lược như: sản xuất linh kiện điện tử, bán dẫn, thiết bị năng lượng tái tạo, logistics thông minh, công nghệ sinh học, vật liệu mới.
Phát triển KCN sinh thái – tích hợp – tuần hoàn
Đẩy mạnh mô hình khu công nghiệp sinh thái (EIP) theo Quyết định 882/QĐ-TTg, lấy kinh nghiệm từ mô hình Nam Cầu Kiền – Hải Phòng để xây dựng tại Bắc Tiền Phong, Hải Hà giai đoạn 2.
Xây dựng cơ chế chia sẻ năng lượng, nước tuần hoàn, phụ phẩm công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong KCN. Mỗi KCN cần có trung tâm điều phối kinh tế tuần hoàn và trung tâm dịch vụ đổi mới sáng tạo.
Đổi mới xúc tiến đầu tư theo hướng chiến lược – chọn lọc
Tái cơ cấu công tác xúc tiến đầu tư: từ “trải thảm” sang “chọn lọc – có chiều sâu – theo chuỗi”. Tổ chức các diễn đàn xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và Hoa Kỳ theo chuyên đề (điện tử, xanh, logistics).
Phối hợp chặt với các tổ chức như JETRO, KOTRA, JICA, Amcham, Eurocham và các trường đại học kỹ thuật để xây dựng mạng lưới hỗ trợ nhà đầu tư từ khâu tìm hiểu – tiếp cận – triển khai – vận hành.

Mô hình trồng ớt sừng xanh Hàn Quốc của người dân xã Bình Khê cung cấp nguyên liệu chế biến cho Công ty TNHH MTV F-ONE GLOBAL FOODS (phường Đức Chính, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh)_Ảnh: baoquangninh.vn
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH TRUNG – DÀI HẠN
Sự phát triển công nghiệp của Quảng Ninh đang đứng trước một thời cơ chiến lược để chuyển mình từ địa phương khai khoáng truyền thống trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, xanh và bền vững của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi không chỉ các điều chỉnh về chính sách và quy hoạch, mà còn cả sự đổi mới trong tư duy phát triển, mô hình liên kết và cách thức vận hành thể chế công nghiệp hiện đại.
Để hiện thực hóa khát vọng này, cần đồng thời triển khai một số nhóm chính sách then chốt:
Về thể chế: Sớm thể chế hóa các định hướng phát triển KCN sinh thái, cụm ngành công nghệ cao, và cơ chế phối hợp vùng giữa Quảng Ninh – Hải Phòng – Hải Dương nhằm hình thành tam giác sản xuất – logistics – đô thị công nghiệp miền Bắc.
Về tài chính – đầu tư: Thiết kế các gói tín dụng xanh, quỹ đổi mới sáng tạo công nghiệp, và cơ chế PPP ưu tiên cho các KCN công nghệ cao – thông minh – tuần hoàn. Có thể học tập mô hình hỗ trợ tài chính đổi mới công nghệ từ Quỹ phát triển công nghiệp Hàn Quốc (KIAT) hay các chương trình của GIZ, JICA tại Việt Nam.
Về nguồn nhân lực: Tăng đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp theo hướng song hành với doanh nghiệp; hình thành cơ chế liên kết “nhà nước – doanh nghiệp – cơ sở đào tạo” để phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp mới.
Về đối ngoại: Chủ động tham gia các mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu; xây dựng hình ảnh Quảng Ninh là “trung tâm công nghiệp xanh – thông minh ASEAN” để thu hút dòng vốn FDI có trách nhiệm.
Trong một thế giới đang chuyển dịch mạnh mẽ sang tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức, chỉ những địa phương dám nghĩ lớn, hành động sớm và phối hợp hiệu quả mới có thể bứt phá. Quảng Ninh đang đứng trước một cơ hội hiếm có – và cũng là sứ mệnh lịch sử – để trở thành hình mẫu trong phát triển công nghiệp thời kỳ mới. Việc hiện thực hóa điều này đòi hỏi sự đồng hành không ngừng giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng khoa học, cùng một tư duy mở, bền vững và tích hợp.
