Pháp sư là thiện thuyết
Học pháp, hành pháp và thuyết pháp là nhiệm vụ quan trọng của hàng đệ tử Phật. Không chỉ hàng xuất gia mà các đệ tử tại gia cũng luôn thuyết giảng, chia sẻ và luận đàm giáo pháp.

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1290 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Ai ai cũng thuyết pháp nhưng chỉ một số ít là pháp sư, bậc thầy thuyết giảng Phật pháp. Còn lại thì chia sẻ hiểu biết của riêng mình về giáo pháp mà thôi.
Giống như danh xưng thiền sư, bậc thầy dạy thiền nhưng phần lớn chỉ là giáo thọ của trường thiền mà thôi. Thiền sư đích thực trước cần sáng đạo, sau đó tìm phương tiện chỉ bày cho người sau “ngộ nhập tri kiến Phật”. Cũng vậy, pháp sư đa phần chỉ là tạm gọi, pháp sư đích thực phải là bậc thiện thuyết, khéo nói; nói ra sự thật ngũ uẩn giai không để người nghe tin hiểu mà buông bỏ, xả ly, không còn chấp thủ tự ngã.
“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo kia, đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:
- Như Thế Tôn nói pháp sư, vậy thế nào gọi là pháp sư?
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Lành thay! Lành thay! Nay ngươi muốn biết những gì mà Như Lai đã nói về nghĩa pháp sư phải không?
Tỳ-kheo bạch Phật:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Nếu người nào đối với sắc mà nói pháp khiến sanh ra yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì đó gọi là pháp sư. Nếu người nào đối với thọ, tưởng, hành, thức mà nói pháp khiến sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì gọi đó là pháp sư. Đó cũng gọi là những gì mà Như Lai đã nói về pháp sư.
Tỳ-kheo kia sau khi nghe những lời Phật dạy, phấn khởi vui mừng, lạy Phật mà lui”.
(Kinh Tạp A-hàm, quyển 1, kinh 26. Thiện thuyết pháp)
Vạn pháp bao la, muôn hình vạn trạng nhưng chung quy không ngoài ngũ uẩn. Phật pháp cũng vậy, mênh mông như trời biển, từ pháp thế gian cho đến xuất thế gian nhưng thâu về một mối là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Thiền minh sát, tinh túy của thiền học Nguyên thủy, nhằm thấy ra các pháp sinh diệt tương tục nên không bám víu, chẳng dính mắc. Cốt tủy của thiền học Đại thừa là nhận ra tự tánh không, sống với đương thể tức không, xả ly toàn triệt. Tuy nói khác nhau nhưng bản chất là một.
Chính tuệ giác này mới dẫn đến dứt nghiệp, thành tựu tâm và tuệ giải thoát. Phật, A-la-hán, thiền sư đều xuất phát từ đây. Pháp sư là bậc có thể giúp người nhận ra và thể nhập vào tuệ giác vô thượng này. Có nhiều cách để nhận ra sự thật vô ngã, đi từ ngoài vào hay từ trong ra, tùy duyên tùy nghiệp. Đức Phật lúc còn tại thế cũng tùy duyên thuyết pháp, tùy bệnh cho thuốc. Pháp gì hay thuốc gì là phương tiện, mục tiêu cuối cùng là lành bệnh, sáng mắt, hết mê.
“Lõi cây” của giáo pháp là thấy ra sự sinh diệt, vô thường, vô ngã của năm uẩn; của thân, tâm và thế giới. Thấy rõ ràng như thật sự nó đang là. Nhờ thấy rõ nên “yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh”, không còn chấp thủ vào năm uẩn. Ai chỉ cho người tin hiểu và sống với tuệ giác này thì chính là pháp sư. Thành ra, giảng sư hay giáo thọ thì chỉ cần giảng thuyết đúng kinh điển. Bậc pháp sư cũng thuyết giảng nhưng có khả năng giúp người nghe nhận ra sự trống rỗng của năm uẩn mà xả ly, buông bỏ hoàn toàn tham ái và chấp thủ.
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/phap-su-la-thien-thuyet-post75158.html