Ngày 25-6, tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), Hội Vận động hiến mô, bộ phận cơ thể người Việt Nam và Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) ký kết phối hợp tuyên truyền vận động đăng ký hiến mô tạng 'Cho đi là còn mãi' và khởi động đăng ký hiến mô, tạng tại các cơ sở tôn giáo trên toàn quốc.
Hiến mô tạng cứu người là nghĩa cử cao đẹp thể hiện tinh thần từ bi, hỉ xả của đạo Phật. Hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 365 phật tử đã đăng ký hiến mô, tạng tại lễ phát động
Đó là chia sẻ của Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, vào sáng nay, 25-6, tại lễ ký kết phối hợp 'Chương trình đăng ký hiến tặng mô, tạng - Cho đi là còn mãi' của Hội Vận động hiến mô, bộ phận cơ thể người Việt Nam và GHPGVN.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 365 phật tử đã đăng ký hiến mô, tạng trong sáng nay.
Thế nào là tu đúng - có người theo học đạo lâu năm mà không biết nói lời ái ngữ, không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói xả láng, chê bai, chỉ trích, vu khống, bịa đặt, phỉ báng kẻ khác.
Con người có thể biết được kiếp trước không? - Với tâm thanh tịnh vị ấy hướng đến 'Lậu Tận Mình' vị ấy biết như thật với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ tâm vô lậu giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú.
Chúng ta hiểu rằng hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích hợp với phương pháp tu tập nào thì cứ tự do chọn phương pháp đó mà tu tập phải phù hợp với hoàn cảnh thời đại.
Bình-sa vương vốn là một Phật tử thuần thành, ông rất quý kính Đức Phật và thích nghe giáo pháp của Ngài. Tuy nhiên, thứ phi Khema của vua thì trái lại, bà rất sợ gặp Đức Phật. Bởi vì đối với Thế Tôn, sắc là họa hoạn, là vô thường, là khổ… mà bà thì rất có sắc.
Sự kiện Ðức Phật Ðản sinh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành, xa rời sự chấp thủ và khát ái.
Lăng già gọi trạng thái này là duy tâm (cittamātra), đó là trạng thái của bình yên và sáng suốt, cội nguồn của giải thoát và tuệ giác. Duy tâm trong nghĩa này còn được gọi là tâm nhất cảnh tính (ekāgratā), vô tướng, vô phân biệt, viên thành thật tính, vô sinh, tính không, Như Lai tạng.
Khổ đau có thể được ví như trận cuồng phong, địa chấn, cơn sóng thần hay như biển lửa. Sức tàn phá bên trong của nó rất khủng khiếp. Nếu không thể quản lý khổ đau, chúng có thể phá hủy cả cuộc đời bạn và người thương của bạn.
Có nhiều cẩm nang, sách hướng dẫn kỹ năng thoát hiểm, sinh tồn trong thảm họa, xử lý tai nạn trong đời sống thường ngày nhưng hình như hiếm có cẩm nang hướng dẫn kỹ năng sinh tồn giúp bạn sống sót và bình an khi khổ đau bỗng nhiên ập tới.
Giáo lý Vô ngã (vô tự tính) đầu tiên được Đức Phật nói cho năm anh em ông Kiều-trần-như tại Vườn Nai trong kinh Vô ngã tướng (Anatta Lakkhana Sutta), bài kinh thứ hai sau kinh Chuyển pháp luân. Nghe xong pháp thoại, năm anh em ông Kiều-trần-như đã chứng đắc A-la-hán.
Năm uẩn có thể được hiểu là toàn bộ sự sống của mỗi chúng sanh. Trong đó sắc uẩn thuộc về thân, còn lại thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thuộc về tâm. Năm uẩn là một trong những giáo lý quan trọng hàng đầu của Phật giáo.
Milinda vấn đạo chỉ ra tập hợp các quan điểm tái sinh, luân hồi khá đầy đủ thông qua cuộc vấn đáp của vua Milinda và tỳ kheo Na Tiên (Nagasena) là hai nhân vật có thật, đồng thời bản kinh này được các bộ phái cả Nam Tông và Bắc Tông chấp nhận.
Sáng 24-2, nhằm ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới theo lịch của Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã quang lâm và thuyết pháp cho hơn 8.000 người từ khắp nơi trở về Dharamsala dự lễ cầu nguyện nhân Ngày Cúng Dường theo truyền thống Kim Cang thừa.
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau. Pháp thoại này, Tôn giả Xá-lợi-phất đã khéo léo thỉnh ý Tôn giả Đại Câu-hy-la nhằm giúp hội chúng sơ cơ nhận ra sự khác biệt này.
Từ việc tìm hiểu vấn đề xóa đói giảm nghèo theo quan điểm Phật giáo ta có thể thấy rằng: Mặc dù lý tưởng cao nhất của người tu Phật là buông bỏ để giải thoát. Nhưng trên hành trình buông bỏ ấy ngoài trí tuệ còn có từ bi. Có trí tuệ để thấy không có gì bám víu, có từ bi để thấy không ai nằm ngoài niềm thương của chính mình.
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật. Chiếc bè và bờ kia, phương tiện và cứu cánh, tục đế và chân đế là hai lĩnh vực khác nhau nhưng lại có liên quan mật thiết với nhau.
Nguồn gốc loài người trên trái đất này quan điểm của Phật giáo được xuất phát từ một thế giới khác, thế giới đó có tên là Quang Âm thiên và đồng thời có những ưu điểm vượt trội hơn so với thế giới của chúng ta.
'Chúng ta' giống như cây. 'Chấp thủ' giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta. Nếu muốn nghe âm thanh, thì chúng sẽ quanh quẩn bên tai, vân vân.
Ác dục là quá nhiều tham muốn bất thiện. Vì tham ái làm cho mờ mắt nên người ta tìm mọi cách để được nhiều hơn. Mọi tranh giành, đấu đá lẫn nhau ở đời đều bắt nguồn từ tham dục. Tà kiến là thấy biết sai lạc. Vì thấy biết không đúng chân lý nên dẫn đến đấu tranh.
Cái tình huynh đệ khi chưa gột sạch phiền não rất cần tỉnh táo, không được chủ quan. Vì tâm từ (thương yêu rộng lớn) và tâm ái (thương yêu chấp thủ) tuy khác nhau nhưng cũng hay khiến cho người ta nhầm lẫn.
Sám hối là tự mình ăn năn, nhận ra những lỗi lầm trước đây đã tạo, nguyện sửa đổi không dám tái phạm những lỗi lầm đó nữa.
Adele Tomlin, một học giả, tác giả, nhà sáng lập Dakini Translation and Publications, đồng thời là một hành giả Kim Cang thừa nổi tiếng, vừa qua đã chia sẻ về một số quan điểm của mình xoay quanh tình yêu thương, hạnh phúc và các mối quan hệ từ sự góc nhìn của Phật giáo.
Chấp thủ là một loại tâm sở khiến chúng ta phóng đại những phẩm chất tốt đẹp của một đối tượng, một nhân vật hay một ý tưởng nào đó, hoặc suy tưởng ra những phẩm chất không hề tồn tại ở đó.
Cái Thấy và biết của đức Phật là Thắng tri và Liễu tri đối tượng được thấy đúng như Pháp môn căn bản đã ghi và con đường tu tập duy nhất là Thực hành chính niệm (Tứ niệm xứ) để nhiếp phục tham ưu (dục hỷ).
Tu tập Trung đạo qua đạo lý duyên khởi là không chấp thủ nhị biên, không rơi vào cực đoan. Sống theo tinh thần tùy duyên, không hệ lụy vào các hiện tượng giả danh, không thật. Vì vậy luôn sống trong tinh thần lạc quan tích cực khi có biến động đau buồn xảy ra.
Khi hành giả chưa đạt được định tâm, lúc tỉnh lúc mê, tỉnh thì có tịnh độ, mê thì lại rơi vào uế độ. Cho nên cần phải cố gắng thiết lập môi trường tịnh độ cùng với những con người hướng tâm đến cõi tịnh mà cùng giúp nhau tu tập và thực hành pháp.
Trong hơn 20 năm hình thành và phát triển, từ tâm nguyện ban đầu của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018), Trung tâm Phiên dịch Hán Nôm Huệ Quang đã có những bước trưởng thành, cải tiến và thay đổi đáng kể theo thời gian.
Đức Phật Như Lai hay đức Phật Cồ Đàm là nhân vật lịch sử có thật, người đã được Kinh sách ghi lại về cuộc đời của Ngài từ khi sinh ra đến khi tìm Pháp (sự thật), thực hành giải thoát hoàn toàn và nhập diệt.
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian. Còn người tu thì có sự nghiệp xuất thế gian, gọi là đạo nghiệp.
Nằm trong chuỗi tọa đàm Sống hạnh phúc, buổi nói chuyện sáng 10/2 của Đức Gyalwang Drukpa tại Đại Bảo tháp Tây Thiên (Vĩnh Phúc) mang chủ đề Giải pháp chữa lành khổ đau nơi thân tâm. Trong hơn hai tiếng, Ngài chia sẻ những phương pháp giản dị, gần gũi mà ai cũng có thể thực hành để làm cho đời sống của mình chuyển biến theo hướng tích cực. Dưới đây Tiền Phong lược trích một số nội dung trong bài giảng của Ngài.
Là con người, chúng ta luôn có xu hướng giành lấy sự chắc chắn trong mọi hoàn cảnh. có lúc, áp lực do việc cố gắng tìm kiếm cảm giác vững chãi ấy đè nặng lên tâm thức mỗi người...
Thiền quán là biết cả khi tâm an tĩnh và khi tâm không an tĩnh. Biết cái tưởng của quá khứ và tương lai vì chúng là kiến thức trực quan. Loại kiến thức này không bị mắc kẹt trên các tưởng. Đây được gọi là kỹ năng buông xả.
Ajahn Lee Dhammadaro (1907-1961), là Thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan (Thai Forest Tradition).