Quản lý kinh doanh xuất khẩu gạo: Bón gốc hay vặt ngọn?

Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP và Nghị định 01/2025/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo (dự thảo) do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng đang thu hút nhiều ý kiến trái chiều từ cộng đồng doanh nghiệp.

Dự thảo này đưa ra hàng loạt thay đổi, trong đó đáng chú ý là ba nhóm quy định chính: (i) yêu cầu thương nhân phải sở hữu kho chứa và cơ sở xay xát gạo (thay vì được thuê như trước); (ii) bắt buộc duy trì mức dự trữ lưu thông, bao gồm tối thiểu 1.040 tấn gạo sau 45 ngày kể từ khi được cấp phép và duy trì đến khi có thành tích xuất khẩu; (iii) siết chặt nghĩa vụ báo cáo kèm chế tài xử phạt, thu hồi giấy phép nếu thương nhân không duy trì đủ điều kiện kinh doanh hoặc không báo cáo đầy đủ.

Theo Bộ Công Thương, mục tiêu của dự thảo là đảm bảo chất lượng và uy tín gạo xuất khẩu, ổn định thị trường, bảo vệ nông dân cũng như quản lý rủi ro cung ứng lúa gạo trong bối cảnh thị trường nhiều biến động. Tuy nhiên, ý kiến từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và nhiều doanh nghiệp trong ngành cho rằng các quy định này đang vô tình tạo ra rào cản gia nhập thị trường, cản trở quyền tự do kinh doanh và thể hiện tư duy quản lý phi thị trường, gây thêm gánh nặng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Những băn khoăn nhìn từ nghị quyết của Đảng đến thực tiễn thị trường

Cuộc tranh luận quanh dự thảo nghị định về kinh doanh xuất khẩu gạo này chính là một ví dụ điển hình về cân bằng giữa quản lý nhà nước và đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Một bên, cơ quan quản lý mong muốn kiểm soát tốt hơn chất lượng nguồn cung lúa gạo, bảo vệ uy tín gạo Việt Nam và người nông dân trồng lúa. Bên kia, cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức đại diện (như VCCI) lại nhấn mạnh yêu cầu giảm rào cản, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh và đúng tinh thần kinh tế thị trường.

Thay vì đặt nặng các điều kiện hình thức như bắt buộc sở hữu kho chứa, cần chuyển hướng sang đánh giá năng lực thực chất của thương nhân. Một cơ chế tính điểm tổng hợp có thể được xây dựng dựa trên các tiêu chí phản ánh toàn diện năng lực doanh nghiệp, bao gồm: (i) khả năng thu mua và tiếp cận thị trường; (ii) năng lực tài chính và quản trị rủi ro; (iii) hệ thống logistics và chuỗi cung ứng; (iv) năng lực xây dựng thương hiệu; (v) khả năng kiểm soát chất lượng và tuân thủ tiêu chuẩn xuất khẩu...

Chủ trương nhất quán trong những năm gần đây là phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị đã nêu rõ yêu cầu giảm can thiệp hành chính, từ bỏ tư duy không quản được thì cấm, đồng thời loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết để xây dựng một môi trường kinh doanh thông thoáng, chi phí tuân thủ thấp. Khi đặt dự thảo lần này trong bối cảnh tinh thần cải cách đó, không ít đề xuất chính sách đang khiến cộng đồng doanh nghiệp và giới chuyên gia cảm thấy băn khoăn.

Không thể phủ nhận rằng những mục tiêu mà Bộ Công Thương đặt ra đều mang tính chính đáng. Tuy nhiên, cách thức để đạt được các mục tiêu đó phải phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường. Nếu chỉ vì một vài trường hợp vi phạm mà áp dụng điều kiện khắt khe cho toàn bộ doanh nghiệp thì đó chẳng khác gì dùng cái sai của số ít để hạn chế cơ hội của số đông. Ở chiều ngược lại, nếu quản lý bị buông lỏng, thị trường có nguy cơ bị thao túng, chất lượng gạo khó kiểm soát và hậu quả cũng không thể xem nhẹ. Vì vậy, vai trò của Nhà nước lúc này cần giống như một trọng tài công tâm có nhiệm vụ đảm bảo một sân chơi rộng mở, công bằng và phải theo dõi sát sao diễn biến cuộc chơi để sẵn sàng “thổi còi” đúng lúc.

Thực tế cho thấy, sau khi Nghị định 107/2018/NĐ-CP được ban hành, nhiều rào cản trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo đã được gỡ bỏ, như yêu cầu thương nhân phải có 50% gạo thơm, quy hoạch vùng sản xuất hay giới hạn thành phần tham gia xuất khẩu. Nhờ đó, xuất khẩu gạo đã tăng trưởng rõ rệt cả về sản lượng lẫn giá trị. Nhiều thương nhân đã có cơ hội gia nhập thị trường. Thành quả này cho thấy, khi rào cản phi thị trường được tháo gỡ, khu vực tư nhân hoàn toàn có thể đóng vai trò dẫn dắt, góp phần nâng cao vị thế của gạo Việt trên trường quốc tế.

Vì vậy, bất kỳ điều chỉnh chính sách nào trong giai đoạn này cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng về tác động lâu dài. Câu hỏi đặt ra là liệu các quy định mới có vô tình khiến khối tư nhân chùn bước hay tạo ra nguy cơ hình thành độc quyền và lợi ích nhóm mới?

Ngược lại, bản thân doanh nghiệp cũng cần ý thức rằng xuất khẩu gạo là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi trách nhiệm xã hội cao. Danh tiếng của ngành gạo Việt có thể bị ảnh hưởng chỉ vì một vài lô hàng kém chất lượng hoặc giao hàng trễ hẹn. Do đó, những yêu cầu ở mức hợp lý về năng lực tài chính hay dự trữ lưu thông là cần thiết để bảo vệ uy tín chung trên thị trường quốc tế.

Gợi mở giải pháp hài hòa lợi ích

Vậy làm sao để vừa giữ gìn uy tín gạo xuất khẩu, bảo vệ quyền lợi người nông dân mà vẫn không làm suy giảm động lực kinh doanh của doanh nghiệp? Câu trả lời nằm ở những giải pháp dung hòa, hướng đến gốc rễ của một thị trường phát triển bền vững và chính cộng đồng doanh nghiệp cùng giới chuyên gia đã đưa ra nhiều gợi ý có giá trị cho bài toán này.

Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh đến việc giảm rào cản cho khu vực tư nhân, đẩy mạnh hậu kiểm thay cho tiền kiểm cứng nhắc. Dự thảo lần này vì vậy không chỉ là văn bản quản lý mà còn là “phép thử” đối với cam kết cải cách thể chế. Hy vọng cơ quan soạn thảo sẽ thực sự lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia để có những sự điều chỉnh hợp lý.

Trước hết, thay vì đặt nặng các điều kiện hình thức như bắt buộc sở hữu kho chứa, cần chuyển hướng sang đánh giá năng lực thực chất của thương nhân. Một cơ chế tính điểm tổng hợp có thể được xây dựng dựa trên các tiêu chí phản ánh toàn diện năng lực doanh nghiệp, bao gồm: (i) khả năng thu mua và tiếp cận thị trường; (ii) năng lực tài chính và quản trị rủi ro; (iii) hệ thống logistics và chuỗi cung ứng; (iv) năng lực xây dựng thương hiệu; (v) khả năng kiểm soát chất lượng và tuân thủ tiêu chuẩn xuất khẩu...

Cơ chế này giúp dung hòa lợi thế của nhiều thành phần doanh nghiệp, từ doanh nghiệp lớn có tài sản cố định đến doanh nghiệp nhỏ có liên kết tốt với nông dân hoặc thị trường ngách. Những doanh nghiệp có điểm đánh giá cao sẽ được tạo thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, các doanh nghiệp yếu kém như không đảm bảo chất lượng, thiếu minh bạch, vi phạm quy định sẽ bị hạn chế hoặc xem xét thu hồi giấy phép. Qua đó, chính sách vừa khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, vừa đảm bảo hiệu quả quản lý.

Cách tiếp cận này đòi hỏi cơ quan quản lý phải thực hiện hiệu quả công tác hậu kiểm, theo dõi sát kết quả hoạt động thực tế và mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đồng thời cập nhật dữ liệu liên tục. Tuy nhiên, đổi lại, đây là phương án công bằng và linh hoạt hơn nhiều so với việc áp đặt rào cản gia nhập thị trường cứng nhắc ngay từ đầu.

Tiếp theo, cần có chính sách khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu và chuỗi cung ứng minh bạch. Một trong những hướng đi hiệu quả là thúc đẩy mô hình liên kết bốn nhà: thương nhân, nhà máy chế biến, hợp tác xã và nông dân. Khi doanh nghiệp xuất khẩu gắn kết chặt chẽ với nông dân qua hợp tác xã hoặc cánh đồng lớn, họ có thể kiểm soát giống lúa, quy trình canh tác và chất lượng thu mua. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng gạo mà còn giúp ổn định giá mua cho nông dân, tránh tình trạng gom hàng trôi nổi và thiếu kiểm soát.

Chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ các thương nhân xây dựng vùng nguyên liệu cần được triển khai trên thực tế. Các biện pháp cụ thể có thể bao gồm ưu đãi tín dụng để đầu tư kho chứa, máy sấy, nhà máy xay xát tại vùng nguyên liệu hoặc hỗ trợ xúc tiến thương mại cho gạo có thương hiệu. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu chưa được tiếp cận ưu đãi về vốn hay chương trình, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn nên việc bổ sung các hỗ trợ này sẽ tạo động lực thực sự để doanh nghiệp nhỏ và vừa mạnh dạn đầu tư, liên kết bền vững với nông dân.

Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống dữ liệu minh bạch về cung - cầu lúa gạo, cho phép doanh nghiệp cập nhật thường xuyên các thông tin như tồn kho, mức dự trữ, hợp đồng xuất khẩu. Một nền tảng trực tuyến tập trung sẽ giúp cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các bên liên quan giám sát lẫn nhau, hạn chế tình trạng báo cáo gian dối hoặc trục lợi chính sách. Minh bạch chuỗi cung ứng cũng là tiền đề để nâng cao năng lực dự báo thị trường, điều hành hiệu quả hơn và từng bước số hóa quy trình thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp, qua đó giảm nhẹ gánh nặng về chi phí tuân thủ.

Đồng thời, chính sách mới cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhất là từ các quốc gia cạnh tranh trực tiếp như Thái Lan, Ấn Độ hay Pakistan. Nếu Việt Nam siết điều kiện quá chặt trong khi các nước này lại áp dụng cơ chế linh hoạt hơn, doanh nghiệp trong nước sẽ bị thiệt thòi ngay trên sân nhà. Vì vậy, việc so sánh và học hỏi chính sách từ khu vực là cần thiết để đảm bảo sự công bằng, tạo thế cạnh tranh lành mạnh cho thương nhân Việt. Mục tiêu không chỉ là siết chặt quản lý “phần ngọn” mà còn phải nâng cao, vun bón cho “phần gốc” chính là sức đề kháng và năng lực nội tại cho toàn ngành gạo.

Những chính sách được đề xuất là nỗ lực đáng ghi nhận trong việc hướng đến một ngành gạo bền vững, có trách nhiệm và được quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, chính sách tốt không chỉ cần đúng mục tiêu mà còn phải tránh tạo ra hệ quả ngược. Nếu các điều kiện kinh doanh bị đẩy lên quá cao, vượt quá khả năng đáp ứng của phần lớn doanh nghiệp thì rủi ro rất lớn là làm giảm động lực tham gia thị trường, dẫn đến cảnh “sân chơi lớn” chỉ dành cho doanh nghiệp lớn. Khi đó, cạnh tranh bị bóp méo và nông dân (người đứng đầu chuỗi giá trị) có thể lại là bên chịu thiệt nhiều nhất vì bị ép giá trong thế ít sự lựa chọn.

Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh đến việc giảm rào cản cho khu vực tư nhân, đẩy mạnh hậu kiểm thay cho tiền kiểm cứng nhắc. Dự thảo lần này là “phép thử” đối với cam kết cải cách thể chế. Hy vọng cơ quan soạn thảo sẽ thực sự lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia để có những sự điều chỉnh hợp lý.

Minh Sang

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/quan-ly-kinh-doanh-xuat-khau-gao-bon-goc-hay-vat-ngon/