Sản xuất công nghiệp tháng đầu năm 2025 tăng nhẹ so với cùng kỳ
Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 1/2025 chỉ tăng nhẹ 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Tết Nguyên đán Ất Tỵ diễn ra trong tháng 1 nên số ngày làm việc ít hơn so với tháng trước và cùng kỳ năm trước…
Theo số liệu báo cáo được Tổng cục Thống kê công bố sáng 6/2, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 1/2025 ước tính giảm 9,2% so với tháng trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện tăng 0,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,2%. Riêng ngành khai khoáng giảm 10,4%.
Trong tháng 1/2025, chỉ số sản xuất của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước, gồm: sản xuất xe có động cơ tăng 33,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 10,3%; sản xuất trang phục tăng 6,1%; dệt tăng 4,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 3,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 3,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 2,1%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm là sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 29,1%; khai thác than cứng và than non giảm 20,1%; sản xuất thiết bị điện giảm 11,5%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 8,4%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 7,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 6,5%.
Về chỉ số sản xuất công nghiệp của các địa phương trên cả nước trong tháng 1/2025 so với cùng kỳ năm trước, báo cáo của Tổng cục Thống kê ghi nhận tăng ở 47 địa phương và giảm ở 16 địa phương.
Trong đó, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao như Nam Định tăng 29,9%; Bắc Kạn tăng 28,5%; Bến Tre tăng 24,2%; Bình Phước tăng 17,0%; Kiên Giang tăng 16,6%; Hải Phòng tăng 16,3%.
Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao là Trà Vinh tăng 56,0%; Khánh Hòa tăng 30,8%; Bình Thuận tăng 20,6%; Đắk Lắk tăng 18,1%; Bắc Kạn tăng 14,8%.
Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hoặc giảm. Cụ thể, Cà Mau giảm 16,3%; Gia Lai giảm 13,2%; Hà Tĩnh giảm 10,4%; Hà Nội giảm 9,8%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 9,3%; Đà Nẵng giảm 8,9%.
Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tháng 1/2025 giảm so với cùng kỳ năm trước, gồm: Bạc Liêu giảm 23,8%; Gia Lai giảm 14,2%; Hà Tĩnh giảm 12,7%. Địa phương có ngành khai khoáng tháng 1/2025 giảm so với cùng kỳ năm trước là Vĩnh Phúc giảm 62,0%; Gia Lai giảm 59,8%; Đà Nẵng giảm 50,9%.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong tháng 1/2025, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước, gồm: ô tô tăng 60,7%; tivi tăng 50,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 13,7%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 9,6%; sữa tươi tăng 7,3%; sữa bột tăng 5,7%; quần áo mặc thường tăng 5,0%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: than sạch giảm 20,0%; linh kiện điện thoại giảm 14,1%; xe máy giảm 12,0%; đường kính giảm 10,7%; khí hóa lỏng LPG giảm 9,2%; dầu thô khai thác giảm 8,2%; sơn hóa học giảm 6,8%; thép thanh, thép góc giảm 6,7%.
Về tình hình số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp, báo cáo của Tổng cục Thống kê ghi nhân tại thời điểm 1/1/2025 tăng 0,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,5% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và tăng 1,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước không đổi và tăng 3,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,3% và tăng 4,9%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,3% so với thời điểm tháng trước và không đổi so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,2% và tăng 4,9%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,1% và tăng 0,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải không đổi và tăng 1,1%.