Sự dang dở của con phố văn chương
Vai trò của Văn Miếu - Quốc Tử Giám quan trọng trong lịch sử các triều đại Việt Nam, đặc biệt ở Thăng Long - Hà Nội, để khi ra đời, đã nằm sát ngay khu vực Hoàng thành. Ngày nay, di tích này trở thành một di sản trong lòng đô thị Hà Nội, để rồi gần nhất, một đơn vị hành chính mới cấp phường mang tên kép trên. Đây cũng là phường duy nhất ở Việt Nam có tên như vậy.
Mặc dù có lịch sử lâu đời, khung cảnh khu vực này cho đến giờ vẫn là kết quả của một quá trình đô thị hóa chưa hoàn thiện. Dấu vết những đường phố chưa được kết nối, các tên phố và xóm làng cũ trải qua những biến đổi phản ánh sự dang dở ấy. Lịch sử quá trình đổi tên đường phố thể hiện sự biến đổi của ý thức hệ, tư duy hành chính lẫn sự kỳ vọng biểu tượng hóa không gian văn hóa đô thị.
Từ phố đánh số đến phố tên người
Nửa phía bắc phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay được giới hạn bằng các tuyến phố Nguyễn Thái Học, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng và Khâm Thiên, trong đó khu vực phía trên cùng gồm di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám và trục phố Nguyễn Khuyến - Ngô Sĩ Liên nằm bên dưới tuyến Nguyễn Thái Học là kết quả quá trình đô thị hóa vào mạt kỳ thuộc địa. Khu vực này đến trước 1954 vẫn là ven đô.
Năm 1928 khu vực từ phường Văn Chương cũ trở xuống thuộc tổng Vĩnh Yên, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (Ngô Vi Liễn, Danh mục làng xã ở Bắc kỳ, sắp theo tổng, phủ, huyện hay châu và theo tỉnh với bảng chi tiết gồm tên chữ Hán và các thông tin địa lý, 1928). Năm 1961, khu phố Đống Đa được thành lập rồi đổi thành quận 20 năm sau đó, là một trong 4 quận nội thành đầu tiên của Hà Nội. Khu vực Văn Miếu, Văn Chương, Hàng Bột kề cận nhau là phần trên cùng của quận này cũng có dấu vết quy hoạch thời Pháp thuộc.
Một trong những dấu ấn của khu vực này là các phố và ngõ tạo thành ô bàn cờ: Trần Quý Cáp, Nguyễn Như Đổ, Y Miếu, Quốc Tử Giám, Văn Miếu... nối với khu vực bên kia phố Tôn Đức Thắng: Hàng Cháo, Hàng Bột, Cát Linh, Phan Phu Tiên, Trịnh Hoài Đức, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Bích Câu, Phan Văn Trị… Phần lớn các tên phố là tên những tác gia văn chương thời trung đại. Chúng xuất hiện khi nước Việt Nam giành được độc lập sau Cách mạng tháng Tám song đều trên cơ sở quy hoạch thời Pháp. Nhiều tên phố đến tận những năm cuối thế kỷ XX vẫn được đánh số.

Bản đồ khu vực Văn Miếu 1885.
Ngoài khu vực từ phía sau ga Hà Nội đến Văn Miếu còn có khu vực Vân Hồ, Thịnh Yên cũng tồn tại các con đường và phố đánh số. Những phố 225, 226, 325… nhiều người Hà Nội đã quen tên, đều đã có tuổi đời 60 năm. Giờ đây những tên Nguyễn Như Đổ, Ngô Tất Tố, Thể Giao thay thế cho những chữ số trên đã thành quen thuộc trong lòng khu vực Hà Nội cũ.
Hãy bắt đầu bằng phố 226. Trước khi có cái tên bằng chữ số, con phố nhỏ bên cạnh Văn Miếu đã hai lần mang tên khác. Đầu thập niên 1930, người Pháp đánh số là Voie No. 251 (đường số 251), sau đó vào đầu năm 1946 mang tên Trạng Bùng. Thời tạm chiếm được đánh lại thành phố 226. Năm 1994, phố mang tên nhà văn Ngô Tất Tố. Một sự tôn vinh khá hợp lý khi tác giả này từng được gọi là “đầu xứ Tố” vì đỗ đầu kỳ khảo hạch tại Bắc Ninh năm 1915 trong khóa thi Hương cuối cùng ở Bắc kỳ.
Từ con phố nhỏ mang tên Ngô Tất Tố đã được 3 thập niên này nhìn rộng ra khu vực quanh Văn Miếu có thể thấy đây là một “chiến địa” của sự đổi thay tên phố. Trong địa thế Thăng Long - Hà Nội, Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở vào vị trí tây nam so với hoàng thành thời Hậu Lê và Nguyễn. Phía sau khu vực này chỉ cách hào nước thành Hà Nội một con đường và phần phía tây của Văn Miếu (tức đoạn đầu phố Hàng Bột cũ, Tôn Đức Thắng hiện nay) là đoạn dương mã thành của cửa Tây Nam.
Con đường từ cửa này ra ngoài thành chính là đường đi ra Ô Chợ Dừa, nối vào con đường thượng đạo xa xưa. Mặc dù có lịch sử lâu đời từ khi Lý Thánh Tông lập nên vào năm 1070, Văn Miếu lại không có một khu phố xá sầm uất kề cận như khu phố chợ buôn bán phía đông hoàng thành, tức khu “36 phố phường”. Thay vào đó, khu vực này lại tập hợp những địa danh có hàm nghĩa văn chương: Huy Văn, Văn Hương, Văn Chương.

Bản đồ khu vực Văn Miếu 1942
Ngõ Huy Văn gắn với câu chuyện về vua Lê Thánh Tông, người có công khởi lập các bia đề danh tiến sĩ trong Văn Miếu và đưa Nho học thành quy chế tuyển dụng nhân tài. Tại đây có chùa Huy Văn, nơi bà phi Ngô Thị Ngọc Dao của vua Lê Thái Tông lánh nạn và sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành, tức Lê Thánh Tông. Khi lên ngôi vị vua này cho đổi tên chùa là Dục Khánh và xây điện Huy Văn bên cạnh. Huy Văn giờ thông với ngõ Văn Chương, con ngõ tương đối rộng này chạy dích dắc trong khu tập thể Văn Chương, lại thông tiếp ngõ Văn Hương và bằng một hệ thống ngõ khá ngoằn ngoèo cùng mang tên Linh Quang dẫn ra ngõ Lương Sử C và kết thúc ở ngã ba với phố Quốc Tử Giám ở khúc cua hình thước thợ với phố Ngô Sỹ Liên.
Lương Sử trước gồm thôn Ngự Sử, nơi có dinh Đốc học, sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết năm 1882, nhân dân đã chôn tạm tại đây và lập nơi thờ ông cùng Nguyễn Tri Phương, sau đó mang tên đền Trung Liệt. Khi Hoàng Cao Khải quy hoạch khu vực Thái Hà ấp đã cho xây miếu Trung Liệt mới trên gò Đống Đa và chuyển chức năng thờ hai vị trung thần này về đấy.
Phía sau dinh Đốc học là khu sinh phần của Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ, tiền nhiệm của Hoàng Cao Khải. Sinh từ này có mặt chính nhìn ra dinh Đốc học, ngăn cách bằng một con đường từng mang tên Hàng Đũa. Sau khi phần mộ của Nguyễn Hữu Độ được đưa về Huế, khu sinh từ này dần hoang phế. Nguyễn Khuyến đã viết khi qua đây:
Lâu đài chốn này nguy nga biết chừng nào!
Đó là sinh từ của ông “thứ nhất quận công”…
Sau khi ông mất, không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,
Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.
Chỉ thấy có ông “thứ nhì không tên”,
Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy…
(Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm - Cảm nghĩ khi qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Độ).
Mặc dù không còn ý nghĩa chức năng thực tế, khu vực này vẫn ghi dấu ấn bằng tên gọi phố Sinh Từ. Phố Sinh Từ vào đầu thế kỷ XX có quy mô dân sinh cao nên người Pháp đã đặt tuyến xe điện từ Bờ Hồ đi Thái Hà ấp qua đây để vòng ra trước cửa Văn Miếu rồi mới rẽ trái xuống Hàng Bột. Khi hình thành tuyến xe điện đi Cầu Giấy, đường xe điện qua Sinh Từ đã chuyển sang Hàng Đẫy phía trên để đi vòng phía sau Văn Miếu.
“Ôi đẹp sao mỗi một tên phố”
Trước năm 1945, toàn Hà Nội chỉ có 24 tên phố mang tên người Việt. Vài trong số này ở khu vực quanh Văn Miếu: Đinh Tiên Hoàng, Lý Thường Kiệt, Cao Đắc Minh, Bảng Nhỡn Đôn. Số lượng này được thay đổi sau ngày 1.8.1945 khi chính quyền Hà Nội của Đốc lý Trần Văn Lai tiến hành cuộc đổi tên dưới tinh thần dân tộc chủ nghĩa và giải thực.
Quy cách đặt tên các danh nhân có hành trạng tương đồng hay cùng thời đại quanh một khu, kết nối các địa danh lịch sử, nhất là các thi hào, thi bá cùng một khu phố gắn với di tích văn hóa, tạo ra một bước tiến có tính khoa học trong hệ thống định danh đường phố Hà Nội. Theo đó, tên Đinh Tiên Hoàng được đặt cho con đường Francis Garnier bên hồ Gươm, Lý Thường Kiệt cho đại lộ Carreau, Lê Quý Đôn (tức Bảng Nhỡn Đôn) cho phố Beylíe (Hàng Chuối ngày nay).

Bản đồ khu vực Văn Miếu thời tạm chiếm, 1950.
Tuy nhiên lần đổi tên này chưa thực sự ổn định, khu vực Văn Miếu vẫn còn trong quá trình chuyển đổi cho đến tháng 12.1945 có một đợt đổi tên mới dưới quan điểm của cuộc cách mạng. Theo cuộc đổi tên này, các tên phố quanh Văn Miếu được tổ chức thành Phan Chu Trinh (Duvillier, Hàng Đẫy - từ đây trong ngoặc là tên cũ), Sĩ Nhiếp (Cao Đắc Minh), Quốc Tử Giám (238), Bùi Huy Bích (Sinh Từ), Ngô Sĩ Liên (Hàng Đũa, 269, Lý Thường Kiệt), Trạng Bùng (251), Tế Sinh (237), Đặng Trần Côn (Alexandre de Rhodes), Đoàn Thị Điểm (Auguste Tholance) cùng những tên phố cho các con đường mới mở hoặc dự kiến: Chu Văn An (đoạn phía sau Sinh Từ cũ nối xuống khu Văn Chương), Nguyễn Công Trứ (dự kiến nối từ ngõ Thanh Miện đến Hàng Lọng), Trương Vĩnh Ký (dự kiến là ranh giới của nội thành cũ), cũng như lân cận là Nhâm Diên, Mạc Đĩnh Chi… hoặc lấy lại tên Đinh Tiên Hoàng.
Đáng chú ý là một số nhân vật được coi có công trong việc cai trị và truyền bá tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam như Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp được đặt tên xung quanh Văn Miếu - miếu thờ Khổng Tử. Trong khi đó con phố lớn vuông góc với Nhâm Diên được đặt tên Tôn Trung Sơn. Hầu hết các tên tuổi đều gắn với lịch sử Nho học và văn hóa đất nước. Các tên phố khu vực này được hiển thị trên một tấm bản đồ do Nhà xuất bản Đại La ấn hành ngày 15.1.1946.

Bản đồ Hà Nội sau Cách mạng tháng Tám, Nhà xuất bản Đại La, 1946.
Thời tạm chiếm, tên các phố là một cuộc dung hòa giữa di sản tên phố năm 1946 với sự điều chỉnh của chính quyền quốc gia Việt Nam. Khu vực Văn Miếu lại có một bộ tên phố mới gần gũi với hệ thống sau này: Nguyễn Thái Học (Phan Chu Trinh), Văn Miếu (Sĩ Nhiếp), Trần Quý Cáp (Đinh Tiên Hoàng), Chu Văn An (Nhâm Diên), Trịnh Hoài Đức (Mạc Đĩnh Chi), Lý Văn Phức (204)… cùng các tên đã có hoặc dùng lại như Sinh Từ, Ngô Sĩ Liên, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn…
Lần này tên của các nhân vật gốc gác Trung Quốc thay bằng tên người Việt, đáng chú ý là vị thầy học thời Trần của Việt Nam được đưa vào thờ trong Văn Miếu cùng Khổng Tử là Chu Văn An đã được thay cho viên thái thú thời Hán là Nhâm Diên, còn nhà cách mạng Tôn Trung Sơn của Trung Quốc thay bằng đại thần Tôn Thất Thuyết. Song sự dở dang của quy hoạch thời tạm chiếm cũng sinh ra việc đặt lại tên bằng cách đánh số theo thứ tự mới, kết quả là có các phố 224, 225 (bỏ tên Tế Sinh), 226… tồn tại cho đến tận cuối thế kỷ trước.

Phố Sinh Từ đầu thế kỷ XX. Ảnh tư liệu
Cuối cùng, năm 1964, đợt đổi tên quy mô nhất sau khi Hà Nội được tiếp quản đã hoàn tất việc đổi tên các phố trong nội thành và duy trì cho đến cuối thế kỷ XX khi có thêm các quận mới và quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Xét một cách công bằng thì đợt đổi tên phố và vườn hoa, công viên này có tính quy củ và phản ánh chính xác hơn quan điểm của lần đề xuất đổi tên đầu tiên vào ngày 1.8.1945. Các tên phố quanh Văn Miếu không thay đổi nhiều so với thời tạm chiếm, ngoại trừ phố Trương Vĩnh Ký chỉ còn một đoạn bên kia Hàng Bột đổi thành Phan Văn Trị, trong khi đoạn còn lại dự kiến quy hoạch đã bị bỏ dở, để lại khu vực Văn Chương quy hoạch thành khu tập thể giữa các ngõ của làng xóm cũ quanh những hồ ao.
Tên phố Hà Nội như vị trưởng tiểu ban nghiên cứu sửa đổi tên phố năm 1964 là Nguyễn Bắc đã tổng kết, là kết quả của một tiến trình điều chỉnh theo nhãn quan chính trị từng thời kỳ. Nhận xét về sự sửa đổi tên phố thời tạm chiếm, ông cho biết “chính quyền bù nhìn đã đổi lại một lần nữa những tên phố của Pháp, dựa vào bản danh sách những tên phố do UBND Hà Nội đặt sau Cách mạng tháng Tám” và chỉ trích việc đã đặt lại tên của Gia Long, Đồng Khánh hay một số tên Pháp.
Ông nhận xét: “Điều đó chứng tỏ rằng tên phố không phải là một công tác hành chính đơn thuần, nó là một việc có ý nghĩa chính trị mang tính chất giai cấp rõ rệt, nó phụ thuộc vào một chế độ chính trị xã hội nhất định” (trích lời tựa cuốn Lược sử tên phố Hà Nội, Lê Thước - Vũ Tuân Sán - Vũ Văn Tỉnh - Trần Huy Bá - Nguyễn Văn Minh biên soạn, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội 1964).

Sinh từ Nguyễn Hữu Độ năm 1894. Ảnh tư liệu
Những con phố quanh Văn Miếu phản ánh chính xác nhãn quan này. Với phố Sinh Từ, con phố kết nối di sản Nho giáo với các nhân vật Nho học trong lịch sử cũng như nằm trên một không gian chuyển tiếp quy hoạch thời cận hiện đại, sự chồng lớp các ý niệm về giá trị văn hóa đã quyết định những cái tên. Hẳn là những người chủ trì việc đổi tên phố năm 1964 như ông Nguyễn Bắc, một nhà lãnh đạo ngành văn hóa thủ đô, đã có dụng ý trong việc lựa chọn tên của vị Tam nguyên Nho học đặt trong một cảm hứng chống thực dân và những quan lại phục vụ chế độ đó. Tuy nhiên, lý do cũng có thể rất đơn giản: Nguyễn Khuyến với danh vị đỗ đầu cả ba kỳ thi Nho học và là một tác gia quan trọng trong lịch sử văn chương nước nhà thì việc đặt tên ông cho một đường phố nối từ trung tâm Hà Nội với Văn Miếu là hợp tình.
Hai mươi năm sau lần đổi tên nói trên, nhạc sĩ Hoàng Vân một lần nữa ca tụng những tên phố của Hà Nội: “Hà Nội ngày nay, ôi đẹp sao mỗi một tên phố...” (Tình yêu Hà Nội). Cái nhìn lãng mạn hóa của nhạc sĩ cũng là một cách nhận diện di sản tên đường phố mà ngày hôm nay vẫn gợi những suy tư trong việc định hình không gian sống mỗi người.
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/su-dang-do-cua-con-pho-van-chuong-50079.html











