Tăng trưởng kinh tế cao nhưng phải bền vững

Theo GS-TS. Giang Thanh Long (Đại học Kinh tế quốc dân), tăng trưởng kinh tế cao rất quan trọng, nhưng phải bảo đảm phát triển bền vững.

GS-TS. Giang Thanh Long (Đại học Kinh tế quốc dân)

GS-TS. Giang Thanh Long (Đại học Kinh tế quốc dân)

Để trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, nhiều ý kiến cho rằng phải tập trung phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Quan điểm của ông ra sao?

Đây là lựa chọn đúng. Không quốc gia nào trong giai đoạn đầu phát triển lại không chú trọng phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Nhưng muốn phát triển bền vững thì không được đánh giá thấp vai trò của nông nghiệp.

Nhìn vào sự phát triển thần kỳ của các nước Đông Á những năm 1960-1990 (Hàn Quốc và Nhật Bản); 1980-2010 (Trung Quốc) sẽ thấy, bên cạnh việc tập trung phát triển công nghiệp, các quốc gia này cũng không lơ là lĩnh vực nông nghiệp. Bảo đảm an ninh lương thực đặc biệt được coi trọng.

Đơn cử, Nhật Bản trong giai đoạn phát triển kinh tế thần kỳ, bình quân mỗi năm lực lượng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm 3%, nhưng năng suất lao động vẫn tăng khoảng 4,5% mỗi năm. Cùng với việc phát triển công nghiệp, kinh tế tăng trưởng ở mức 2 con số mỗi năm, thì Nhật Bản vẫn bảo đảm được an ninh lương thực và trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, nhưng đang phải đối mặt với không ít vấn đề. Đâu là bài học cho Việt Nam, thưa ông?

Sự phát triển của một quốc gia, dân tộc, bên cạnh thu nhập cao, an sinh xã hội tốt, thì phải duy trì quy mô dân số ở mức hợp lý. Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển khác đang phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số, quy mô dân số giảm dần, số người tham gia lực lượng lao động giảm trong khi số người nghỉ hưu tăng. Đây là bài toán nan giải vì tuổi thọ của người dân ngày càng tăng, một khi dân số bị giảm thì rất khó phục hồi.

Thấy trước điều này, từ năm 2017, Trung ương đã ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, khẳng định dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài, phải chú trọng toàn diện các mặt: quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số, đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh để bảo đảm phát triển bền vững.

Nghị quyết 21-NQ/TW cũng khẳng định, đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số. Mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi Pháp lệnh Dân số (có hiệu lực từ ngày 18/6/2025) nhằm tạo cơ sở pháp lý thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân số, trong đó chính thức chấm dứt việc hạn chế mức sinh.

Ông có nghĩ, chủ trương mới đây của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác dân số là rất kịp thời?

Việt Nam đang ở giai đoạn có sự thay đổi rất lớn của cấu trúc dân số: vừa có cơ cấu dân số vàng (tỷ trọng dân số 15-64 tuổi chiếm 67,4%), nhưng tốc độ tăng dân số chậm lại, đồng thời đang già hóa dân số rất nhanh, nằm trong top 10 nước trên thế giới về già hóa dân số. Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tỷ suất sinh của Việt Nam đang giảm rất mạnh, từ 2,11 con/phụ nữ (năm 2021) xuống còn 1,96 con (năm 2024). Có tới 32/63 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp hơn mức sinh thay thế (2 con/phụ nữ).

Nếu không có các chính sách chiến lược vừa cấp thiết, vừa lâu dài, thì chậm nhất vào năm 2039, Việt Nam sẽ đạt đỉnh dân số và sau đó giảm dần. Khi đó, giả sử chúng ta đạt được mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao, nhưng phải đối mặt với thiếu hụt lực lượng lao động và gánh nặng an sinh xã hội rất lớn do già hóa dân số.

Năm 2024, số lượng người già từ 60 tuổi trở lên là 14,2 triệu người, tăng 2,8 triệu người so với năm 2019. Dự báo đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên xấp xỉ 18 triệu người. Con số này sẽ tăng lên 22,29 triệu người, chiếm 20,21% tổng dân số vào năm 2038. Đến năm 2049 là 28,61 triệu người, chiếm khoảng 1/4 dân số.

Với 25% dân số là người cao tuổi, số người hưởng lương hưu và trợ cấp xã hội tăng, trong khi số người đóng góp vào quỹ hưu trí (bảo hiểm xã hội) giảm, dẫn tới quỹ hưu trí thu không đủ chi, buộc ngân sách nhà nước phải đứng ra bảo đảm. Khi đó, dù thu nhập bình quân đầu người có cao hơn hiện nay rất nhiều, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với vô vàn khó khăn không dễ giải quyết.

Từ bài học nhãn tiền của các nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đảng đã kịp thời ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW. Mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi Pháp lệnh Dân số. Đây là những văn bản pháp lý ban hành kịp thời, vì chúng ta không chỉ mong muốn tăng trưởng kinh tế nhanh, mà quan trọng hơn là cần một xã hội phát triển bền vững.

Từ góc độ lao động, theo ông, cần biện pháp gì để GDP có thể tăng trưởng 2 con số vào giai đoạn tới?

Tuổi trung vị của dân số Việt Nam hiện tại là 41, tức là dân số dưới 41 tuổi chiếm 50% và số người trên 41 chiếm 50%. Chúng ta đang thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Với độ tuổi trung vị là 41, cần phải có chính sách cụ thể trong việc phổ cập kỹ năng số cho toàn dân.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã đưa ra khái niệm rất hay là “bình dân học vụ số” để tiến tới xã hội số, quốc gia số và công dân số toàn diện. Từ đó mới có thể nâng cao nhận thức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, với độ tuổi trung vị là 41, nhiều người trên 41 tuổi tiếp nhận tri thức mới chậm hơn, đặc biệt là công nghệ thông tin. Vì vậy, cần có các chính sách đa dạng, phù hợp trong “bình dân học vụ số”.

Chúng ta nói nhiều về lao động kỹ thuật cao, nhất là lao động trong lĩnh vực bán dẫn, công nghệ thông tin, điện tử. Nhưng lực lượng lao động làm việc tại khu vực công nghệ cao hiện mới chiếm 2,9% tổng lực lượng lao động. Bài toán đặt ra là, làm sao nâng cao được năng suất lao động toàn xã hội, khi mà lực lượng lao động kỹ thuật cao còn rất nhỏ so với tổng số lao động trong nền kinh tế.

Ngoài ra còn vấn đề gì nữa không, thưa ông?

Đó là khoảng cách thu nhập giữa các vùng kinh tế, giữa các địa phương, giữa thành thị và nông thôn. Theo điều tra của Cục Thống kê, thu nhập của người dân khu vực trung du và miền núi phía Bắc (khu vực khó khăn nhất) là 1,613 triệu đồng/người/tháng (năm 2014), tăng lên 3,759 triệu đồng/người/tháng (năm 2024). Trong cùng khoảng thời gian, khu vực Đông Nam Bộ tăng từ 4,125 triệu đồng lên 7,075 triệu đồng. Như vậy, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng ngày càng bị kéo giãn.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước là “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Tỉnh có điều kiện phải có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ tỉnh không có điều kiện. Thu từ đất đai (đấu giá quyền sử dụng đất, tiền cho thuê đất) chiếm tỷ trọng rất lớn trong thu ngân sách nhà nước. Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, khoản thu từ đất đai được để lại 100% cho địa phương. Do đó, địa phương có điều kiện thuận lợi thì khoản thu từ đất đai lớn, càng có điều kiện đầu tư phát triển. Ngược lại, các tỉnh có điều kiện khó khăn thì không có nguồn tài chính để đầu tư.

Để bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, Dự thảo Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi đang được Bộ Tài chính xây dựng đã đề xuất: khoản thu từ đất đai sẽ được phân chia, địa phương nào tự thu, tự chi sẽ được hưởng 70%; địa phương nào vẫn nhận cân đối từ Ngân sách Trung ương sẽ được hưởng 80%, phần còn lại nộp về Ngân sách Trung ương. Khi đó, Trung ương mới có nguồn đầu tư cho các địa phương khó khăn, để cả nước cùng phát triển.

Mạnh Bôn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tang-truong-kinh-te-cao-nhung-phai-ben-vung-d301716.html