Tạo cơ chế, chính sách vượt trội thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo
Việc ban hành Nghị quyết đặc thù của Quốc hội là yêu cầu cấp thiết nhằm khai thông điểm nghẽn, tạo hành lang pháp lý mới, thúc đẩy tự chủ đại học thực chất, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, để phát triển đột phá giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới.
Sáng 17/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội làm việc tại hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Trình bày Tờ trình, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nêu rõ: Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, giáo dục Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng, song đang đối mặt với khủng hoảng mang tính hệ thống. Các “điểm nghẽn” về thể chế, nhân lực, tài chính và hội nhập quốc tế đang cản trở sự phát triển đột phá, bộc lộ sự bất tương thích giữa tầm quan trọng chiến lược của giáo dục với cơ chế quản lý hành chính hiện nay.
Vì vậy, việc ban hành Nghị quyết đặc thù của Quốc hội là yêu cầu cấp thiết nhằm khai thông điểm nghẽn, tạo hành lang pháp lý mới, đủ mạnh để chấn hưng và phát triển đột phá giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới.
Sử dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất
Thể chế hóa phần III Nghị quyết 71-NQ/TW, dự thảo Nghị quyết quy định các chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo và nhân viên trong các cơ sở giáo dục; trao thẩm quyền cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo trong tuyển dụng, điều động, biệt phái để bảo đảm thống nhất quản lý nhân lực ngành; đồng thời, ban hành cơ chế thu hút, trọng dụng và phát triển nhân lực chất lượng cao trong giảng dạy, nghiên cứu, quản lý.

Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. (Ảnh: DUY LINH)
Dự thảo Nghị quyết cũng quy định cơ chế bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông, đại học và giáo dục thường xuyên; tổ chức sử dụng thống nhất một bộ sách giáo khoa trên toàn quốc; xây dựng hệ thống giáo dục mở, liên thông, thúc đẩy học tập suốt đời và xã hội học tập.
Liên quan đến nhóm chính sách về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong giáo dục, dự thảo Nghị quyết quy định cơ chế đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong quản lý, giảng dạy, học tập, kiểm định; phát triển nền tảng giáo dục thông minh và cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục; thúc đẩy hợp tác giữa Nhà nước-nhà trường-doanh nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Dự thảo Nghị quy định tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt tối thiểu 20% tổng chi, trong đó bảo đảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển và ưu tiên cho giáo dục mầm non, phổ thông, vùng khó khăn; ban hành cơ chế tài chính khuyến khích hợp tác công-tư, xã hội hóa; ưu đãi đặc thù về đất đai, thuế, tín dụng cho cơ sở giáo dục công lập và không vì lợi nhuận, bảo đảm công bằng và bền vững trong đầu tư cho giáo dục.
Đáng chú ý, theo Tờ trình, hiện pháp luật chưa cho phép Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định sử dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất, dẫn đến thiếu ổn định, tốn kém xã hội. Điểm b khoản 2 Điều 4 dự thảo Nghị quyết bổ sung thẩm quyền này để bảo đảm tính thống nhất, tiết kiệm và hiệu quả.
Đồng thời, bổ sung thêm khoản 5 Điều 7 về miễn phí sách giáo khoa cho học sinh cơ sở giáo dục phổ thông (hoàn thành vào năm 2030) và miễn học phí, giáo trình môn Giáo dục quốc phòng và an ninh tại cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Giao trực tiếp thẩm quyền tuyển dụng cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo

Quốc hội làm việc tại hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. (Ảnh: QH)
Về quản lý, tuyển dụng và sử dụng đội ngũ nhà giáo: Thực tiễn cho thấy thẩm quyền quản lý, tuyển dụng, điều động giáo viên hiện phân tán giữa nhiều cấp, gây chồng chéo, cục bộ và thiếu linh hoạt. Khoản 1 Điều 3 dự thảo Nghị quyết quy định giao cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển giáo viên mầm non, phổ thông công lập trong phạm vi địa phương, khắc phục tình trạng phân mảnh, thừa thiếu giáo viên cục bộ, bảo đảm quản lý thống nhất, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, phù hợp chuyên môn và nhu cầu thực tế.
“Quy định nêu trên đã thể hiện rõ tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong quản lý Nhà nước”, Bộ trưởng nêu rõ.
Việc xây dựng Nghị quyết được thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không yêu cầu lập Báo cáo đánh giá tác động chi tiết về nguồn lực.
Quy định cụ thể cơ chế giám sát, kiểm tra trong tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển nhân sự giáo dục
Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết: Ủy ban tán thành đề nghị của Chính phủ về việc trình Quốc hội ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn. Dự thảo Nghị quyết đã cơ bản thể chế hóa tinh thần Nghị quyết 71; xác lập được một số cơ chế, chính sách tạo tiền đề quan trọng để thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo theo hướng hội nhập. Tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát kỹ lưỡng để thể chế hóa đầy đủ các nội dung của Nghị quyết 71.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh. (Ảnh: DUY LINH)
Về quy định về thẩm quyền của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo trong điều động, thuyên chuyển, biệt phái, bố trí, phân công, thay đổi vị trí việc làm đối với nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và nhân viên trong các cơ sở giáo dục công lập liên quan đến phạm vi từ 2 đơn vị hành chính cấp xã trở lên tại điểm a khoản 1, Ủy ban cho rằng chưa chặt chẽ, có thể hiểu là “2 xã” cùng địa bàn tỉnh hoặc thuộc 2 tỉnh; và Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo của một tỉnh không thể thực hiện thẩm quyền này đối với nhân sự giáo dục của một địa phương thuộc cấp tỉnh khác. Vì vậy, đề nghị cân nhắc chỉnh lý, quy định rõ theo hướng giữa các đơn vị hành chính cấp xã trong cùng 1 tỉnh.
Đồng thời, đề nghị cân nhắc quy định cụ thể cơ chế giám sát, kiểm tra, báo cáo định kỳ bảo đảm minh bạch, công bằng trong tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển nhân sự giáo dục, tránh nguy cơ tiêu cực, cục bộ; tiếp tục nghiên cứu, quy định phân cấp, ủy quyền cho cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh đáp ứng đủ điều kiện, năng lực thực hiện theo quy định được thực hiện tuyển dụng, tiếp nhận nhân sự giáo dục.
Liên quan đến cơ chế ưu đãi đầu tư cho giáo dục và đào tạo (Điều 6), Ủy ban tán thành quy định về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định và tổ chức thực hiện theo quy trình rút gọn (quy định bởi Chính phủ) về bổ sung dự án đầu tư trung hạn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, về bổ sung kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp xã quy định tại khoản 1; nhất trí với quy định cơ chế, chính sách và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2.
Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ lưu ý ban hành quy định chi tiết về thủ tục rút gọn nhưng vẫn bảo đảm giá trị quyền sử dụng đất và trình tự công khai thông tin, bảo đảm minh bạch.












