Tạo đột phá mới đưa đất nước vào kỷ nguyên vươn mìnhBài cuối: Những đột phá để 'vươn mình' thành công
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, với tiềm lực quốc gia hiện có, dân tộc Việt Nam cần trang bị cho mình một tâm thế mới và những hành trang mới, đồng thời tìm ra được những mũi nhọn đột phá để bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Hànôịmới đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Cả hai ông được biết đến là các chuyên gia về các vấn đề khoa học chính trị, kinh tế của Việt Nam, tham gia Nhóm tư vấn của Thủ tướng Chính phủ qua các nhiệm kỳ.
Một kỷ nguyên tất yếu, khác biệt và đầy tươi sáng
- “Kỷ nguyên vươn mình” là một khái niệm mới đang được dư luận trong nước cũng như quốc tế đặc biệt quan tâm khi nói đến sự phát triển của Việt Nam trong tương lai, chuyên gia có thể nói rõ hơn nội hàm khái niệm này?
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thiên: Khái niệm kỷ nguyên mang một nội hàm lớn, nói đến một thời đại khác đầy triển vọng, một thời kỳ phát triển khác biệt và đầy tươi sáng cũng như bao hàm kỳ vọng vào sự vượt bậc của Việt Nam. Kỷ nguyên vươn mình là từ định hình rất hay và chuẩn xác. Trước nay chúng ta vẫn đang phát triển, 40 năm đổi mới đã có những thành tựu to lớn nhưng chưa hết tầm, chưa đúng tầm, chưa xứng đáng với những thành tựu Việt Nam có thể đạt được. Các giai đoạn trước là sự chuẩn bị cho kỷ nguyên hiện nay đạt tầm vóc mới, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Một quỹ đạo phát triển mới đang định hình.
“Kỷ nguyên vươn mình” bao hàm cả ý nghĩa chúng ta có thể trỗi dậy lại. Mục tiêu phát triển đã có nhưng giai đoạn trước, tiềm năng của chúng ta chưa được giải phóng, lợi thế chưa được tận dụng tối đa. Chúng ta phải thay đổi cách phát triển của mình, cách phát triển kiểu cũ không đủ để bảo đảm thành công trong giai đoạn mới, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
Thời đại hiện nay đã khác hẳn về công nghệ, thời đại dựa chủ yếu vào trí tuệ con người, trí tuệ sáng tạo chứ không phải chỉ dựa vào sức người hay cơ khí, tài nguyên, nguồn lực tài chính. Trí tuệ sáng tạo của người Việt Nam trong chiến tranh bộc lộ rất tốt nhưng trong thời bình thể hiện chưa thật sự xuất sắc để tạo ra sự xoay chuyển về công nghệ. Hiện nay nguồn lực quan trọng phải là nguồn lực số, chính nó đã giúp các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc trỗi dậy rất mạnh. Ngoài ra sự xung đột, hiểm họa dân số giảm hay biến đổi khí hậu khiến thế giới luôn trong tình trạng bất ổn. Có thể thấy rõ những vấn đề tác động đến sự phát triển của loài người, của mỗi quốc gia trong thời đại này đều trở nên khác thường…
Với một nước có khát vọng phát triển như Việt Nam, chúng ta xác lập “kỷ nguyên vươn mình” nghĩa là chúng ta đã nhận diện được những thách thức chưa từng có trước đây, thách thức mang tính sinh tử của thời đại, thách thức xứng tầm với trí tuệ Việt Nam. Vì thế, ý nghĩa của khái niệm “kỷ nguyên vươn mình” đã truyền đi cảm hứng mạnh mẽ, cổ động lớn cho sự phát triển của Việt Nam.
- Thưa chuyên gia, nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc cũng như xu thế phát triển của thế giới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc có phải là quy luật tất yếu của sự phát triển?
- Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Đúng vậy, nhìn vào lịch sử Việt Nam, ta thấy một loạt cơ sở cho sự khẳng định này.
Trước hết, đó là truyền thống kiên cường và lòng yêu nước sâu sắc. Trong suốt chiều dài lịch sử, người Việt Nam luôn thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ trước các thế lực ngoại xâm và thách thức. Điều này đã hun đúc một nền tảng văn hóa bền vững, lòng yêu nước sâu sắc và khát vọng phát triển mạnh mẽ.
Thứ hai là sự hội nhập và thích nghi linh hoạt. Qua từng giai đoạn lịch sử, Việt Nam đã học hỏi và cải tiến từ các nền văn minh khác, giúp dân tộc ngày càng mạnh mẽ và sẵn sàng cho những bước phát triển mới.
Thứ ba là tầm nhìn chiến lược và cải cách. Đổi mới vào cuối thế kỷ 20 là một bước chuyển mình quan trọng, đánh dấu kỷ nguyên vươn lên mạnh mẽ về kinh tế, xã hội và vị thế quốc tế. Tinh thần đổi mới sẽ được tiếp tục phát huy trong thế 21.
Thứ tư là xu thế tất yếu của phát triển toàn cầu. Toàn cầu hóa và sự chuyển đổi mạnh mẽ trong công nghệ, kinh tế xanh và kết nối quốc tế khiến chúng ta phải nắm bắt cơ hội và đi theo xu thế này để giữ vững và nâng cao vị thế.
Thứ năm là cam kết của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với các cam kết như đạt Net zero vào năm 2050 và xây dựng quốc phòng, an ninh hùng mạnh,Việt Nam đã xác định rõ ràng mục tiêu phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia.
Nguồn lực quan trọng được tích lũy qua nhiều thập kỷ
- Hành trang của Việt Nam là gì để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thưa chuyên gia?
- Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Hành trang bao gồm những nền tảng và nguồn lực quan trọng mà đất nước đã tích lũy qua nhiều thập kỷ.
Thứ nhất là nguồn nhân lực dồi dào và tiềm năng nhân lực trẻ. Với dân số trẻ và nguồn nhân lực dồi dào, Việt Nam có lợi thế về lực lượng lao động năng động, sáng tạo và sẵn sàng tiếp thu kiến thức mới.
Thứ hai là truyền thống văn hóa và tinh thần đoàn kết dân tộc. Đây là hành trang đặc biệt quan trọng giúp dân tộc có thể đối mặt với những thách thức lớn và phát huy sức mạnh tổng hợp trong các giai đoạn phát triển.
Thứ ba là cải cách thể chế và chính sách mở cửa hội nhập. Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách thủ tục hành chính và tăng cường pháp quyền đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ tư là cam kết phát triển bền vững và xanh hóa nền kinh tế, Các chính sách về bảo vệ môi trường, phát triển năng lượng tái tạo, và giảm thiểu phát thải carbon là những hành trang quan trọng để Việt Nam phát triển đồng thời bảo vệ hệ sinh thái.
Thứ năm là vị thế quốc tế và quan hệ đối ngoại vững mạnh. Những mối quan hệ này không chỉ hỗ trợ về kinh tế mà còn tạo ra sự hỗ trợ chính trị và an ninh, giúp Việt Nam có môi trường ổn định để phát triển.
Thứ sáu là sự phát triển của cơ sở hạ tầng và nền tảng công nghệ. Quá trình chuyển đổi số diễn ra ở nhiều lĩnh vực sẽ tạo ra động lực tăng trưởng mạnh mẽ và giúp Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ bảy là kinh nghiệm vượt qua các thách thức lịch sử. Sự kiên cường và linh hoạt trước những biến động quốc tế và trong nước là bài học quý báu trong hành trang của dân tộc.
Những mũi nhọn để “vươn mình” thành công
- Theo chuyên gia, những đột phá về nhận thức giúp Việt Nam “vươn mình” trong kỷ nguyên mới là gì?
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thiên: Xác lập kỷ nguyên vươn mình là chúng ta đã nhận thức được những “nút thắt”, những hạn chế trong cách phát triển cũ đang kìm hãm sự phát triển vượt bậc và có khát vọng thay đổi cấu trúc phát triển mới. Đây là bước đột phá lớn nhất về nhận thức. Kỷ nguyên vươn mình chính là “điểm chuyển” thay đổi tâm thế, phương thức để thay đổi cấu trúc phát triển.
Cách tiếp cận một phương thức phát triển mới đã hiện diện nhưng cần được đồng bộ, hoàn chỉnh. Ví dụ như quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch toàn tuyến là những điểm mới trong công tác quy hoạch. Rồi quy hoạch hạ tầng kết nối đồng bộ sân bay, cầu, cảng biển… Dù chưa có một quy hoạch thực sự hoàn hảo nhưng cách tiếp cận này là một sự thay đổi trong nhận thức rất lớn.
Hay hiện nay Quốc hội, Chính phủ đã cho phép một số địa phương có cơ chế đặc thù để phát triển vượt trước, trao quyền thật sự cho chính quyền cấp tỉnh. Điều này thể hiện chúng ta đã nhận ra cơ chế chung đang trói buộc sự phát triển và từng bước tìm cách tháo gỡ. Tuy nhiên việc này đang thí điểm thận trọng để tiến tới triển khai đồng bộ.
Một dấu hiệu đột phá nữa trong nhận thức là Chính phủ trở thành Chính phủ kiến tạo, Nhà nước phục vụ, nỗ lực trên tinh thần cầu thị, vì tương lai cởi bỏ những trói buộc trở thành “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Chính phủ. Một ví dụ điển hình gần đây nhất như Quy hoạch điện lực quốc gia đến năm 2030 (Quy hoạch điện VIII) sau 15 tháng có hiệu lực, để bảo đảm cung ứng điện, Bộ Công Thương đề xuất, Chính phủ sẵn sàng điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn.
Xác lập tầm nhìn với những cam kết toàn cầu mạnh mẽ, đáp ứng với nhu cầu thời đại cũng là bước đột phá trong cấu trúc phát triển mới, như cam kết Net Zero vào năm 2050, cam kết vào năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển với thu nhập cao…với những chỉ tiêu cụ thể. Tôi hy vọng Đại hội lần thứ XIV của Đảng tới, chúng ta tiếp tục đưa ra được những cam kết mang tính sát sườn, cụ thể hơn nữa của Đảng với dân, của Việt Nam với thế giới. Việc đặt ra những mục tiêu không có tính cam kết cần được loại bỏ, xác lập những cam kết có tính khả thi mà nếu không làm được nhân dân sẽ phán xét, thế giới sẽ nhìn vào.
- Trong thực tiễn, đâu là những mũi đột phá cụ thể để Việt Nam tránh bẫy thu nhập trung bình, vươn lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”, thưa chuyên gia?
- Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Để tránh bẫy thu nhập trung bình và vươn lên thành quốc gia phát triển, Việt Nam cần tập trung vào các mũi nhọn đột phá sau:
Thứ nhất, đổi mới công nghệ và chuyển đổi số: Áp dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực như sản xuất, dịch vụ, nông nghiệp và quản lý công, giúp nâng cao năng suất, tối ưu hóa quy trình và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia; khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D): Tăng chi phí cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ mới và tạo môi trường thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng hạ tầng công nghệ tiên tiến: bảo đảm khả năng truy cập mạng internet tốc độ cao và đầu tư vào các trung tâm dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và chuỗi khối để hỗ trợ nền kinh tế số.
Thứ hai là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là cải cách giáo dục và đào tạo: Hướng đến giáo dục toàn diện và hiện đại, tập trung vào các kỹ năng STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) và kỹ năng mềm. Đồng thời, chú trọng đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cao trong các lĩnh vực công nghiệp và công nghệ; nâng cao kỹ năng quản lý và lãnh đạo: Đào tạo thế hệ lãnh đạo có tư duy chiến lược, kỹ năng quản lý hiện đại và có khả năng điều hành hiệu quả để ứng phó với các thách thức kinh tế toàn cầu.
Thứ ba là phát triển các ngành công nghiệp giá trị gia tăng cao. Tập trung vào các ngành công nghệ sạch, năng lượng tái tạo, điện tử, dược phẩm và sản xuất thiết bị công nghệ. Đầu tư vào chuỗi giá trị sản xuất: Việt Nam cần tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghệ, chế tạo và nông nghiệp công nghệ cao, để tạo thêm giá trị và tăng lợi nhuận; khuyến khích các mô hình khu công nghiệp sinh thái: xây dựng các khu công nghiệp xanh và khu công nghiệp sinh thái giúp phát triển bền vững và giảm thiểu tác động đến môi trường.
Thứ tư là cải cách thể chế và nâng cao chất lượng quản lý công: Tăng cường minh bạch và cải cách hành chính; giảm thiểu quan liêu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Cải cách pháp luật về đầu tư và kinh doanh: Xây dựng hệ thống pháp luật linh hoạt và cập nhật, nhằm thúc đẩy môi trường kinh doanh cạnh tranh, công bằng và bền vững; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật và thúc đẩy trách nhiệm giải trình trong các cơ quan nhà nước.
Thứ năm là phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và đô thị thông minh: Đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông và logistics; tạo điều kiện để lưu thông hàng hóa và dịch vụ dễ dàng trong nước và kết nối với quốc tế. Đầu tư vào hệ thống đường cao tốc, đường sắt, cảng biển và sân bay sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển, thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế; xây dựng các đô thị thông minh: Phát triển đô thị với công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, giúp quản lý giao thông, năng lượng và an ninh một cách hiệu quả. Quản lý tài nguyên bền vững và bảo vệ môi trường: Bảo đảm nguồn nước sạch, năng lượng xanh và hạ tầng xử lý rác thải để đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài và bảo vệ môi trường sống.
Thứ sáu là đẩy mạnh hội nhập quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu: Tăng cường quan hệ đối ngoại và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA): Thúc đẩy các mối quan hệ ngoại giao và các hiệp định thương mại tự do mới giúp mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm “Made in Vietnam”. Phát triển năng lực xuất khẩu nông sản và sản phẩm công nghệ cao: Tận dụng thế mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất công nghệ để gia tăng giá trị xuất khẩu, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để thâm nhập sâu vào các thị trường khó tính như EU và Hoa Kỳ; xây dựng thương hiệu quốc gia: Quảng bá hình ảnh quốc gia và các sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Việt Nam có tiềm năng và điều kiện để tránh bẫy thu nhập trung bình và vươn lên thành một quốc gia phát triển, nhưng điều này đòi hỏi một chiến lược toàn diện và quyết tâm cao độ. Bằng cách tập trung vào những mũi nhọn đột phá trên, Việt Nam có thể thúc đẩy tăng trưởng bền vững và “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” trong tương lai không xa.
- Trân trọng cảm ơn các chuyên gia!