Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 4-11/1: Giá dầu, vàng, ngô, đậu tương tăng mạnh
Kết thúc tuần giao dịch từ 4-11/1, thị trường hàng hóa ghi nhận nhiều mặt hàng tăng giá mạnh như dầu tăng gần 4%, vàng tăng 1,7%, ngô tăng hơn 4%, đậu tương hơn 3%..., trong khi ngô, đường, ca cao, cao su, quặng sắt… đều giảm.
Năng lượng: Giá dầu tăng cao nhất 3 tháng, khí LNG cũng tăng vọt
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng lên mức cao nhất 3 tháng trong tuần qua do các thương nhân chuẩn bị tinh thần cho tình trạng gián đoạn nguồn cung bởi gói trừng phạt lớn nhất của Mỹ nhằm vào doanh thu dầu và khí đốt của Nga.
Chính quyền Biden đã áp đặt các lệnh trừng phạt mới nhắm vào các nhà sản xuất dầu, tàu chở dầu, bên trung gian, thương nhân và cảng của Nga, nhằm tác động đến mọi giai đoạn trong chuỗi sản xuất và phân phối dầu của Moscow.
Cụ thể, chốt phiên 10/1, dầu thô Brent tăng 2,84 USD (+3,7%) lên 79,76 USD/thùng, sau khi vượt mức 80 USD/thùng lần đầu tiên kể từ ngày 7/10/2024. Dầu thô Mỹ (WTI) tăng 2,65 USD (+3,6%) lên 76,57 USD/thùng - cũng cao nhất 3 tháng.
Cả 2 loại dầu này tăng hơn 4% trước đó trong phiên sau khi một tài liệu chưa được xác minh nêu chi tiết về lệnh trừng phạt được lưu hành giữa các nhà giao dịch ở châu Âu và châu Á.
Các nguồn tin trong ngành thương mại dầu mỏ của Nga và ngành lọc dầu của Ấn Độ cho Reuters biết rằng, các lệnh trừng phạt sẽ gây ra sự gián đoạn nghiêm trọng đối với hoạt động xuất khẩu dầu của Nga sang các nước mua dầu chính là Ấn Độ và Trung Quốc.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi cái lạnh khắc nghiệt tại Mỹ và châu Âu, điều này đã làm tăng nhu cầu dầu sưởi ấm. Dầu diesel hàm lượng lưu huỳnh cực thấp của Mỹ tăng 4,8% lên 104,62 USD/thùng, cao nhất kể từ tháng 7/2024.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ vọt tăng lên mức cao nhất 2năm vào thứ Sáu (10/1) do dự báo thời tiết lạnh hơn và nhu cầu sưởi ấm cao hơn trong 2 tuần tới so với dự kiến trước đó, cùng lưu lượng khí đốt kỷ lục đến các nhà máy xuất khẩu LNG.
Cụ thể, giá LNG giao tháng 2/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 28,8 cent (+7,8%) lên 3,989 USD/mmBTU - mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 4/1/2023. Con số này đã vượt qua mức đóng cửa cao nhất trong gần 2 năm là 3,946 USD/mmBTU vào ngày 24/12/2024.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 102,6 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 1/2025, giảm so với mức 103,8 bcfd vào tháng 12/2024. Con số này so sánh với mức kỷ lục 105,3 bcfd vào tháng 12/2023.
LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 148,3 bcfd trong tuần này lên 149,3 bcfd vào tuần tới trước khi giảm xuống 147,0 bcfd trong 2 tuần kế tiếp.
Kim loại: Hầu hết tăng giá, trừ quặng sắt
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng phục hồi do sự không chắc chắn xung quanh các chính sách của chính quyền Trump sắp tới làm tăng sức hấp dẫn trú ẩn an toàn, ngay cả khi số liệu việc làm của Mỹ mạnh hơn dự kiến đã củng cố dự đoán Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể không cắt giảm lãi suất mạnh năm 2025.
Giá vàng đã giảm xuống 2.663,09 USD/ounce một thời gian ngắn sau khi số liệu cho thấy Mỹ bổ sung 256.000 việc làm trong tháng 12/2024 so với ước tính của các nhà kinh tế là tăng 160.000 việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,1% so với mức dự báo là 4,2%.
Cụ thể, vàng giao ngay tăng 0,6% lên 2.686,24 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2/2025 tăng 0,9% lên 2.715 USD/ounce. Tuy nhiên, giá vàng đã phục hồi nhanh chóng và đạt mức cao nhất kể từ ngày 12/12/2024, tăng hơn 1,7% trong tuần qua.
Tương tự, bạc và bạch kim cũng nhận được lực mua mạnh mẽ trong tuần qua. Đóng cửa, giá bạc tăng 4,15% lên 31,3 USD/ounce và bạch kim tăng hơn 5% lên 996,1 USD/ounce. Giá bạc đã tăng 7 phiên liên tục, lên mức cao nhất 4 tuần.
Thị trường kim loại quý được hỗ trợ do nhu cầu trú ẩn của các nhà đầu tư vẫn đang tương đối mạnh mẽ, bất chấp dữ liệu báo cáo việc làm tháng 12/2024 của Mỹ tăng vượt dự đoán và tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ thay đổi. Ngoài ra, sự không chắc chắn xung quanh các chính sách thuế quan của Tổng thống đắc cử Donald Trump tiếp tục thúc đẩy nhu cầu đối với các mặt hàng kim loại quý như một kênh trú ẩn an toàn.
Ở nhóm kim loại màu, giá hầu hết đều tăng trong tuần qua. Trong đó, đồng COMEX đã tăng 5,66% và tiến sát 9.500 USD/tấn, mức tăng hàng tuần tốt nhất kể từ tháng 5/2024.
Tâm lý tăng giá của thị trường này chủ yếu được thúc đẩy bởi sự lạc quan rằng Trung Quốc - nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới, sẽ thực hiện các cam kết gần đây nhằm tăng cường kích thích tiền tệ và tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giá đồng cũng được hỗ trợ do kỳ vọng rằng nhu cầu mạnh mẽ đối với xe điện và công nghệ năng lượng tái tạo sẽ thúc đẩy mức tiêu thụ kim loại này cao hơn trong năm nay.
Bên cạnh đó, tình trạng gián đoạn nguồn cung tiềm ẩn từ các mỏ đồng cũ vẫn là mối quan tâm chính. Tuy nhiên, căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng và khả năng chậm lại trong sản xuất vẫn đang khiến các nhà đầu tư thận trọng.
Ở nhóm kim loại đen, quặng sắt tăng trong phiên cuối tuần qua (10/1) bởi việc kích thích từ nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc, nhưng cả tuần giá vẫn giảm do nhu cầu yếu theo mùa đối với mặt hàng này.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2025 trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (Trung Quốc) tăng 0,4% lên 753,5 CNY (102,76 USD)/tấn trong phiên 10/1, nhưng giảm 1,95% trong tuần.
Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 3/2025 giảm 0,01% về 97,05 USD/tấn và giảm 1,17% trong tuần.
Tiêu thụ thép thấp theo mùa, làm giảm nhu cầu về nguyên liệu thô, trong đó có quặng sắt. Công suất trung bình của 247 nhà sản xuất lò cao giảm tuần thứ 8 liên tiếp xuống 84,24%, theo số liệu của Công ty Tư vấn Mysteel.
Trong khi sự sụt giảm trong nguồn cung thép được dự kiến trong tháng 1 này do thêm nhiều nhà sản xuất thép bắt đầu bảo dưỡng thiết bị, điều đó khó có thể đủ để cân bằng với nhu cầu đang giảm, trích dẫn một báo cáo từ Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia Trung Quốc (NDRC).
Tăng trưởng tại Trung Quốc ước tính ở mức 4,9% trong năm 2024 và dự đoán là 4,8% trong năm 2025, một phần bù đắp bởi tăng trưởng tiêu dùng ít đi và yếu kém trong lĩnh vực bất động sản kéo dài.
Tại Thượng Hải, thép thanh đóng cửa tăng 0,03%; thép cuộn cán nóng tăng gần 0,1%; dây thép cuộn tăng 0,17%; trong khi thép không gỉ giảm 0,04%.
Nông sản: Ngô và đậu tương tăng giá mạnh, lúa mì đi ngược thị trường
Giá lúa mì tương lai tại Sàn Giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) giảm trong phiên 10/1 sau khi Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ USDA cho biết, lượng lúa mì tồn kho cuối kỳ của nước này đạt 798 triệu giạ, phù hợp với kỳ vọng của thị trường từ 785-825 triệu giạ.
Cụ thể, lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 3/2025 giảm 3,25 cent về 5,3075 USD/giạ; ngược lại, lúa mì mùa Đông đỏ cứng tháng 3/2025 tăng 1,05 cent lên 5,5175 USD/giạ và lúa mì mùa Xuân tháng 3/2025 tăng 0,75 cent lên 5,8425 USD/giạ. Trong tuần, lúa mì tăng 0,28%.
Trong khi đó, giá ngô tương lai trên sàn CBOT tăng mạnh trong phiên này sau khi USDA công bố sản lượng và năng suất ngô của Mỹ thấp hơn kỳ vọng. Ngô tháng 3/2025 (CH25) tăng 14,05 cent lên 4,7005 USD/giạ, đạt mức cao nhất kể từ ngày 15/5/2024. Trong tuần, giá ngô tăng 4,38%.
USDA ước tính sản lượng ngô đạt 14,867 tỷ giạ, thấp hơn kỳ vọng của thị trường từ 14,965-15,193 tỷ giạ. Cơ quan này cũng ước tính năng suất ngô ở mức 179,3 giạ/mẫu Anh, thấp hơn so với kỳ vọng của các nhà phân tích là 181,3-183,7 giạ/mẫu Anh. Lượng dự trữ cuối kỳ của ngô được ước tính là 1,54 tỷ giạ, ở mức thấp nhất trong dự đoán từ 1,540-1,815 tỷ giạ.
Tương tự, giá đậu tương CBOT cũng tăng mạnh khi USDA ước tính sản lượng, năng suất và lượng tồn kho đậu tương cuối kỳ thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường.
Đậu nành giao tháng 3/2025 tăng 26,25 cent lên 10,2525 USD/giạ và tăng 3,38% trong tuần. Trong khi đó, giá bột đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 1 USD về 298,30 USD/tấn ngắn, còn dầu đậu tương cùng kỳ hạn tăng 2,82 xu lên 45,58 xu/pound - mức cao nhất kể từ tháng 11/2024.
Theo ước tính của USDA, sản lượng đậu tương của Hoa Kỳ là 4,366 tỷ giạ, so với kỳ vọng của các nhà phân tích từ 4,408-4,539 tỷ giạ. Năng suất đậu tương đạt 50,7 giạ/mẫu Anh, thấp hơn kỳ vọng của thị trường từ 51,1-52,6 giạ/mẫu Anh. Lượng đậu tương tồn kho cuối kỳ của Hoa Kỳ ước tính là 380 triệu giạ, thấp hơn dự đoán của các nhà phân tích từ 390-495 triệu giạ.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, ca cao, cao su cùng giảm, cà phê diễn biến trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch qua, giá đường thô tăng 0,6% lên 19,22 cent/pound, sau khi phục hồi từ mức thấp nhất 3,5 tháng. Tuy nhiên, hợp đồng này vẫn giảm 2,2% trong tuần. Đường trắng tháng 3/2023 tăng 0,4% lên 503,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, thời tiết thuận lợi ở Brazil đã làm giảm giá đường gần đây, mặc dù thị trường được hỗ trợ bởi sản lượng vụ mùa thấp hơn dự kiến ở Ấn Độ. USDA dự báo, sản lượng đường của Mỹ sẽ đạt mức cao kỷ lục 9,40 triệu tấn.
Cà phê Arabica tăng 5,35 US cent (+1,7%) lên 3,2385 USD/lb và 1,6% trong tuần. Ngược lại, cà phê Robusta giảm 0,3% xuống 4.966 USD/tấn và ổn định trong tuần.
Các đại lý cho biết, thời tiết khô tại Brazil trong năm 2024 dự kiến làm giảm vụ thu hoạch năm vụ mùa 2025-2026 và giúp củng cố giá trong những tháng tới. Bất chấp tình trạng thời tiết cải thiện ở Brazil do lượng mưa vừa đủ, triển vọng nguồn cung khan hiếm hơn trong năm 2025 vẫn tồn tại.
Giá ca cao kỳ hạn tại New York giảm 357 USD (-3,3%) xuống 10.570 USD/tấn và 6% trong tuần. Giá ca cao London cũng giảm 2,5% xuống 8.580 bảng/tấn và giảm 5% trong tuần.
Các đại lý cho biết, dù lượng hàng giao tại Ghana vẫn cao hơn so với mùa trước, nhưng đã chậm lại đáng kể thời gian gần đây, trong khi nguồn cung từ Bờ Biển Ngà dự kiến sẽ giảm vào tháng tới.
Thị trường tiếp tục có sự biến động lớn và lo ngại thanh khoản giảm do các quỹ đầu cơ kém hoạt động. Công ty Môi giới StoneX cảnh báo rằng, thời tiết khô hạn có thể làm giảm sản lượng ca cao toàn cầu trong niên vụ 2024-2025, dẫn đến mất cân bằng cung cầu.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên Sàn giao dịch Osaka,Nhật Bản tăng 3,9 JPY (+1,07%) lên 368,6 JPY (2,33 USD)/kg, nhưng giảm 1,58% trong tuần. Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 3/2025 tăng 155 CNY (+0,92%) lên 16.980 CNY (2.315,69 USD)/tấn, nhưng cả tuần giảm 0,53%.
Cao su Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp trong ngày 10/1 bởi đồng JPY yếu và giá nguyên liệu thô cao, nhưng cả tuần giá vẫn giảm bởi triển vọng nhu cầu yếu đi ở Trung Quốc.
Đồng USD tăng 0,5% so với đồng JPY trong tuần. Đồng JPY yếu khiến các tài sản định giá bằng đồng tiền này rẻ hơn cho khách mua nước ngoài.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua