Thủ tướng Phạm Minh Chính: Giữ vững ổn định vĩ mô, kiến tạo đột phá thể chế và đầu tư cho giai đoạn tăng trưởng mới
Phát biểu trình bày Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và giai đoạn 2021-2025, đồng thời dự kiến kế hoạch năm 2026 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định: trong bối cảnh thế giới nhiều biến động, Việt Nam vẫn giữ vững ổn định vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn, duy trì tăng trưởng cao và củng cố niềm tin của thị trường.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
Ổn định vĩ mô - nền tảng của tăng trưởng bền vững
Theo Thủ tướng, dù đối diện với những thách thức chưa từng có, đặc biệt là tác động kéo dài của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu, trong đó toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế – tài chính cốt lõi đều hoàn thành vượt kế hoạch.
Từ nỗ lực phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, Chính phủ đã kiểm soát lạm phát dưới 4%, giữ ổn định tỉ giá, giảm lãi suất cho vay bình quân 2,5% so với 2022, và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng. Nợ công giảm từ 43,3% GDP năm 2020 xuống 35% GDP năm 2025, bội chi ngân sách duy trì 3,1-3,2% GDP, nằm trong ngưỡng an toàn.
Thu ngân sách nhà nước ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, tăng 36% so với nhiệm kỳ trước, trong khi Chính phủ đã miễn, giảm, giãn thuế - phí - lệ phí khoảng 1 triệu tỷ đồng, thể hiện rõ định hướng hỗ trợ doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo kỷ luật tài chính. Song song với đó, Chính phủ tăng thu – tiết kiệm chi hơn 1,57 triệu tỷ đồng, bảo đảm nguồn lực cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội.
Nhờ chính sách điều hành linh hoạt, nền kinh tế duy trì sức chống chịu ấn tượng: GDP năm 2025 tăng 8%, bình quân 2021-2025 đạt 6,3%, cao hơn nhiệm kỳ trước (6,2%). Quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, vươn lên thứ 32 thế giới, trong khi GDP bình quân đầu người đạt 5.000 USD, đưa Việt Nam bước vào nhóm thu nhập trung bình cao.
“Chúng ta đã giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo cân đối lớn và tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới - đó là nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển mới”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Sau đại dịch, Chính phủ chuyển trạng thái nhanh chóng sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh”, tạo điều kiện sớm phục hồi sản xuất và mở cửa nền kinh tế. Các gói hỗ trợ quy mô lớn đã giúp doanh nghiệp và người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn nhất: tổng giá trị hỗ trợ 119.000 tỷ đồng cho hơn 68 triệu lượt người, 580.000 tỷ đồng miễn giảm thuế - phí, cùng 23.300 tấn gạo cứu trợ. Song song, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được triển khai mạnh mẽ, giải ngân trên 265.000 tỷ đồng.
Kết quả, khu vực doanh nghiệp phục hồi nhanh chóng, hiện có 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, tăng hơn 20% so với 2020. Tốc độ tăng trưởng sản xuất, tiêu dùng được củng cố, đầu tư toàn xã hội đạt 33,2% GDP, phù hợp mục tiêu 32-34%.
Đặc biệt, vốn đầu tư công tăng mạnh, đạt 3,4 triệu tỷ đồng, cao hơn 55% so với nhiệm kỳ trước. Số dự án sử dụng ngân sách trung ương giảm từ 11.000 xuống 4.600, cho thấy chuyển biến rõ rệt trong quản trị đầu tư, tránh dàn trải, tập trung cho công trình trọng điểm.
Bên cạnh đó, dòng vốn FDI đạt 185 tỷ USD, tăng gần 9%, giúp Việt Nam đứng trong top 15 nước thu hút FDI lớn nhất thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên khoảng 900 tỷ USD, xuất siêu đạt 88,3 tỷ USD, gấp đôi nhiệm kỳ trước, khẳng định năng lực cạnh tranh và sức bật của khu vực xuất khẩu.

Thủ tướng nhấn mạnh, thành công này không chỉ đến từ năng lực điều hành linh hoạt mà còn từ niềm tin của nhà đầu tư quốc tế. IMF đánh giá Việt Nam nằm trong nhóm 10 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới, còn Standard & Poor’s dự báo Việt Nam thuộc 5 quốc gia tăng trưởng nhanh nhất châu Á. Đặc biệt, việc FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ “cận biên” lên “mới nổi thứ cấp” đánh dấu bước tiến lịch sử, mở ra cơ hội thu hút dòng vốn quốc tế quy mô lớn vào nền kinh tế.
Ba đột phá chiến lược - trụ cột của tăng trưởng dài hạn
Theo Thủ tướng, trong giai đoạn 2021-2025, ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực đã được triển khai quyết liệt, tạo tiền đề cho phát triển bền vững.
Về thể chế, Chính phủ trình trên 180 luật, pháp lệnh, nghị quyết, ban hành 820 nghị định - con số cao nhất từ trước đến nay. Cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh, cắt giảm hơn 4.300 quy định kinh doanh và giấy tờ công dân, giúp giảm chi phí, thời gian và tạo môi trường đầu tư minh bạch, thông thoáng hơn.
Về hạ tầng, mạng lưới giao thông và năng lượng được đầu tư mạnh mẽ. Đến năm 2025, Việt Nam hoàn thành 3.245 km đường cao tốc và 1.711 km đường ven biển, vượt xa mục tiêu Quốc hội giao. Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 cơ bản hoàn thành; nhiều tuyến đường vành đai, đô thị, đường sắt và cảng biển trọng điểm được đưa vào vận hành, định hình không gian phát triển vùng kinh tế mới.

Về nguồn nhân lực, cơ cấu lao động dịch chuyển tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm còn 25%, trong khi lao động qua đào tạo đạt 70%. Năng suất lao động toàn nền kinh tế tăng 6,85% năm 2025, vượt mục tiêu 6,5%. Chính phủ cũng triển khai đào tạo 5.000 kỹ sư trong lĩnh vực bán dẫn và trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, chuẩn bị lực lượng chất lượng cao cho nền kinh tế số.
Một trong những điểm nhấn quan trọng được Thủ tướng nêu là chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực mới của nền kinh tế. Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) và Trung tâm Dữ liệu Quốc gia đã đi vào hoạt động, đóng vai trò hạt nhân trong hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Cùng với đó, 100% xã phường có hạ tầng băng rộng và cáp quang, tốc độ Internet di động thuộc top 20 thế giới. Thương mại điện tử tăng trưởng bình quân 20% mỗi năm; chính phủ số, kinh tế số, xã hội số phát triển mạnh mẽ. Đề án 06 giúp tiết kiệm 3.000 tỷ đồng mỗi năm cho xã hội, nâng cao hiệu quả dịch vụ công.
Theo xếp hạng Liên hợp quốc, chỉ số Chính phủ điện tử năm 2024 tăng 15 bậc so với 2020, đứng thứ 71/193 quốc gia, khẳng định kết quả chuyển đổi số thực chất.
Định hướng năm 2026: Bứt phá về tăng trưởng, thể chế và đầu tư chiến lược
Thủ tướng nhận định, để nền kinh tế vận hành hiệu quả và bền vững, điều kiện tiên quyết là thể chế phải được hoàn thiện, thị trường phải vận hành thông suốt.
Trong 5 năm qua, Chính phủ đã thể chế hóa nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển các loại thị trường: đất đai, tài chính, trái phiếu, bất động sản, năng lượng, khoa học - công nghệ.

Nhờ đó, hàng loạt dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả kéo dài nhiều năm đã được xử lý triệt để, giải phóng nguồn lực hàng triệu tỷ đồng. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, 5 ngân hàng yếu kém được tái cơ cấu ổn định, củng cố an toàn hệ thống, thị trường trái phiếu và bất động sản được giám sát chặt chẽ, bảo vệ niềm tin nhà đầu tư.
Thủ tướng nhấn mạnh: “Ổn định tài chính không chỉ là giữ cân đối, mà còn là bảo đảm tính minh bạch và kỷ cương trong vận hành chính sách”.
Bên cạnh kết quả tích cực, Thủ tướng thẳng thắn nhìn nhận áp lực điều hành ổn định vĩ mô còn lớn, một số thị trường như bất động sản, vàng, trái phiếu còn tiềm ẩn rủi ro, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hóa và kinh tế số. Một số quy định pháp luật còn chồng chéo, thủ tục hành chính cần tiếp tục được cắt giảm mạnh hơn, trong khi khả năng hấp thụ vốn đầu tư công và tư nhân vẫn cần cải thiện. Những yếu tố này đòi hỏi cải cách thể chế sâu rộng hơn, phân cấp - phân quyền thực chất hơn, và điều hành chính sách linh hoạt, phối hợp đồng bộ hơn nữa.
Hướng về năm 2026 - năm bản lề mở ra chu kỳ phát triển mới, Thủ tướng xác định mục tiêu tăng trưởng GDP trên 10%, GDP bình quân đầu người 5.400–5.500 USD, CPI dưới 4,5%, năng suất lao động tăng 8%.

Chính phủ sẽ giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và tiền tệ, tăng thu ít nhất 10%, giảm chi thường xuyên 10% để tăng chi đầu tư phát triển lên 40% ngân sách. Nguồn vốn sẽ được ưu tiên cho các dự án hạ tầng trọng điểm, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, cảng hàng không Long Thành giai đoạn 2, hạ tầng 5G, Internet vệ tinh và trung tâm dữ liệu quốc gia.
Cùng với đó, Chính phủ tận dụng dư địa nợ công và bội chi giảm để phát hành trái phiếu phát triển hạ tầng chiến lược, phấn đấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP. Đây sẽ là “đòn bẩy kép”, vừa kích thích tổng cầu, vừa gia tăng năng lực sản xuất tiềm năng của nền kinh tế.
Thủ tướng nhấn mạnh, kinh tế tư nhân tiếp tục là động lực quan trọng nhất, còn kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính phủ cũng sẽ phát triển mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, cũng như khu thương mại tự do thế hệ mới.