Tiềm năng những họ chè Lâm Đồng trong chuỗi giá trị toàn cầu
Họ Chè (Camellia L., họ Theaceae) hiện có khoảng 300 loài đã được định danh trên toàn cầu; trong đó, Việt Nam sở hữu gần 90 loài (chiếm 1/3 thế giới) và hơn 40 loài đặc hữu.

Giống chè cao sản LĐ97
Đây là họ thực vật duy nhất vừa cung cấp 100% nguồn trà uống của nhân loại (trà xanh), vừa là loài dược liệu đắt nhất Đông Nam Á (trà hoa vàng), vừa là biểu tượng hoa cảnh cao cấp (trà my ).
Chỉ với 300 loài, họ chè đã nuôi sống, chữa lành và kết nối tinh thần của hơn 3 tỷ người trên hành tinh.
Về kinh tế, họ chè tạo ra giá trị trên thị trường hơn 120 tỷ USD/năm (trà) và hàng chục tỷ USD từ dầu hạt, mỹ phẩm, cây cảnh. Điều này cho thấy họ chè là một trong những loài thực vật có tính phổ rộng nhất đối với đời sống xã hội.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài báo, chúng tôi chỉ nêu giá trị của 3 loài đó là: Trà uống của nhân loại, trà xanh (Camellia sinensis), trà uống có tính dược liệu cao thuộc loài trà đắt nhất Đông Nam Á, trà hoa vàng (Camellia chrysantha) và trà biểu tượng hoa cảnh cao cấp, trà my (Camellia japonica) có nhiều tiềm năng phát triển ở Lâm Đồng.

Chè là một trong những loài thực vật có tính phổ rộng nhất đối với đời sống xã hội (Nguồn: ảnh internet)
Trà xanh - Thức uống truyền thống
Cây trà Camellia sinensis, nguồn gốc của hầu hết các loại trà trên thế giới, có nguồn gốc từ Đông Á, cụ thể là vùng biên giới giữa tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), bang Assam (Ấn Độ), Myanmar và Việt Nam.
Các nghiên cứu di truyền học cho thấy sự thuần hóa ban đầu diễn ra ở biên giới Đông Ấn Độ - Tây Nam Trung Quốc khoảng 2.000-3.000 năm trước. Việt Nam là một trong những nôi cây chè trên thế giới.

Cây trà Camellia sinensis, nguồn gốc của hầu hết các loại trà trên thế giới, có nguồn gốc từ Đông Á (Nguồn: ảnh internet)
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas), Việt Nam hiện có khoảng 170 - 200 doanh nghiệp chế biến chè hoạt động chính thức; trong đó, có nhiều thương hiệu chè nổi tiếng, tập trung vào các loại chè xanh (chiếm 60 - 70% sản lượng), chè đen (20 - 30%) và chè Ô long (10 - 15%).
Tỉnh Lâm Đồng có diện tích trồng chè khoảng 10.800 ha, sản lượng vượt 164.100 tấn/năm (chủ yếu Oolong và chè đặc sản cao nguyên), chiếm 10,94% sản lượng quốc gia.
Năng suất chè Lâm Đồng đạt trên 14 tấn/ha, cao nhất cả nước nhờ độ cao 1.000 - 1.500 m và khí hậu mát mẻ. Các sản phẩm trà chủ yếu xuất khẩu sang Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc, Trung Đông…

Kỷ lục Việt Nam 1.111 “trà nương” tại chuỗi hoạt động Lễ hội Trà thế giới năm 2025 (Nguồn: ảnh internet)
Trà hoa vàng - Nguồn gen quý
Trà hoa vàng được ví như loài “thần dược” quý hiếm nhất của Việt Nam và thế giới.
Trà hoa vàng là một trong những loài thực vật có giá trị dược liệu cao nhất từng được ghi nhận, vượt trội hơn rất nhiều so với trà xanh thông thường.

Trà hoa vàng được ví như loài “thần dược” quý hiếm nhất của Việt Nam và thế giới (Nguồn: ảnh internet)
Tại Việt Nam, loài này được xếp vào nhóm IA (cực kỳ quý hiếm, cấm khai thác tự nhiên), nhưng được phép trồng và chế biến từ nguồn giống bảo tồn.
Trà hoa vàng có khoảng 52 loài ở Trung Quốc - Việt Nam, với gần 40 loài nội địa Việt Nam, chủ yếu ở Tây Nguyên và Quảng Ninh. Cao nguyên Trung Bộ có 18 loài đặc hữu, thuộc 9 phân họ.

Dùng làm trà thảo dược chống lão hóa và tăng cường miễn dịch, với giá trị kinh tế cao (Nguồn: ảnh internet)
Các giống này được bảo tồn tại Vườn Quốc gia Ba Vì và vườn gen, với hơn 10 loài được nhân giống thành công, hỗ trợ nghiên cứu dược liệu và du lịch sinh thái.
Tiên phong sản xuất, kinh doanh chè hoa vàng tại Lâm Đồng là Công ty TNHH trà Kim Hoa Trà (xã Mê Linh Lâm Hà). Doanh nghiệp này đã đầu tư nghiên cứu bảo tồn, sản xuất và chế biến tạo ra đa dạng sản phẩm từ trà hoa vàng Thạch Châu; đồng thời, là doanh nghiệp bảo tồn nguồn gen trà hoa vàng nhiều nhất Việt Nam hiện nay.
Trong thực tiễn, trà hoa vàng là "thần dược" ở Việt Nam, dùng làm trà thảo dược chống lão hóa và tăng cường miễn dịch, với giá trị kinh tế cao (hàng triệu đồng/kg).
Trà hoa vàng thúc đẩy bảo tồn rừng ở Quảng Ninh và Lâm Đồng; đồng thời, hỗ trợ tái tạo rừng nhờ giá trị thương mại.

Trà hoa vàng không chỉ là nguồn dược liệu mà còn là biểu tượng bảo vệ đa dạng sinh học (Nguồn: ảnh internet)
Ở Việt Nam, trà hoa vàng được bảo vệ nghiêm ngặt, góp phần vào du lịch sinh thái và giáo dục môi trường. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức đe dọa sự tồn vong, đòi hỏi các biện pháp bảo tồn bền vững.
Trà hoa vàng không chỉ là nguồn dược liệu mà còn là biểu tượng bảo vệ đa dạng sinh học, mang lại lợi ích lâu dài cho xã hội.
Trà my - Tiềm năng phát triển ở Lâm Đồng
Trà my hay còn gọi là hoa trà Nhật Bản Camellia japonica, là loài hoa biểu tượng của họ chè, phân bố chủ yếu ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam, với hơn 2.000 giống được lai tạo.
Về mặt khoa học, hoa và hạt của trà my chứa các chất có hoạt tính chống viêm, chống oxy hóa và hỗ trợ sức khỏe da. Dầu hạt giàu oleic acid, được sử dụng trong mỹ phẩm để dưỡng tóc và da; đồng thời, có tiềm năng làm nhiên liệu sinh học nhờ hàm lượng chất dễ bay hơi cao và tro thấp.

Có hơn 3.000 giống hoa trà tư nhiên trên khắp thế giới (Nguồn: ảnh internet)
Trà my có hoa đẹp, cánh mỏng, màu sắc đa dạng (trắng, hồng, đỏ, hồng phấn...), nở rộ vào mùa Đông - Xuân, tạo điểm nhấn nổi bật khi nhiều loài cây khác đang nghỉ đông.
Cây có tán lá xanh mướt quanh năm, dáng cây mềm mại, dễ uốn nắn tạo thế bonsai đẹp mắt. Trong cảnh quan sân vườn hoặc tiểu cảnh, trà my mang lại vẻ thanh lịch, tinh tế và gần gũi với thiên nhiên.
Theo quan niệm Á Đông, hoa trà my tượng trưng cho sự may mắn, tài lộc và tình yêu bền vững. Cây nở hoa vào cuối năm cũ đầu năm mới (thường gần Tết Nguyên đán), nên được xem là biểu tượng của sự khởi đầu tốt đẹp, thịnh vượng và hạnh phúc.
Ở Nhật Bản, nơi trà my được trồng rất phổ biến, loài cây này gắn liền với văn hóa trà đạo và tinh thần thiền, thể hiện sự tinh khiết, khiêm nhường và thanh tao.

Trà my đỏ tạo cảnh quan ấn tượng (Nguồn: ảnh internet)
Tại Việt Nam, trà my thường xuất hiện trong các sân vườn truyền thống, nhà cổ, chùa chiền, mang vẻ đẹp cổ kính và bình yên.
Trà my là loài cây dễ trồng, chịu rét tốt, ít sâu bệnh, tượng trưng cho sự kiên cường, sức sống mạnh mẽ. Việc chăm sóc cây trà my bonsai cũng thể hiện sự kiên nhẫn, tỉ mỉ và yêu thiên nhiên của người chơi cây.

Nét đẹp của Trà trắng hay còn gọi là bạch trà (Nguồn: ảnh internet)
Cây trà my làm cảnh quan không chỉ làm đẹp không gian sống mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về vẻ đẹp, tình yêu, tài lộc và sự khởi đầu tốt lành – rất phù hợp để trồng trước nhà, trong sân vườn hoặc làm quà tặng ý nghĩa trong dịp khai trương văn phòng công sở hay tư gia.

Trà my trắng quyến rũ (Nguồn: ảnh internet)
Trường Đại học Đà Lạt (DLU), thông qua Khoa Sinh học và các đề tài nghiên cứu hợp tác với các nhà khoa học quốc tế, điển hình là TS. Lương Văn Dũng dẫn dắt đã đóng góp quan trọng vào việc phát hiện và công bố các loài trà my (Camellia spp., chủ yếu thuộc C. japonica và các loài liên quan) mới ở Lâm Đồng.
Ngoài ra, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh thái Tài nguyên là những đơn vị có nhiều công trình nghiên cứu về hoa trà my.

Chè họ thực vật duy nhất vừa cung cấp 100% nguồn trà uống của nhân loại (trà xanh) (Ảnh internet)
Các nghiên cứu tập trung vào điều tra, sưu tập và nhân giống, với bộ sưu tập trà my tại khuôn viên trường trở thành nguồn gen quý hiếm độc đáo.
Các phát hiện gần đây (từ 2012 - 2020), kết quả nghiên cứu phát hiện đã được công bố trên các tạp chí quốc tế như International Camellia Journal, góp phần vào việc bảo tồn nguồn gen quý hiếm và ứng dụng dược liệu ở Việt Nam.

Chế biến chè (Nguồn: ảnh internet)
Các dòng chính bao gồm: Camellia dalatensis (Trà my Đà Lạt); Camellia dilinhensis (Trà my Di Linh); Camellia sp.1 (Trà my Đạm Ri).
Trong Đề tài Điều tra, sưu tập và nhân giống các loài trà my ở Lâm Đồng (công bố 2014), Trường Đại học Đà Lạt đã ghi nhận thêm 13 loài tự nhiên tại Lâm Đồng, bao gồm 4 loài đặc hữu như trà my Cát Tiên (C. luteocerata) và trà my cành dẹt (C. inusitata, công bố 2012).

Tác giả nghiên cứu trà hoa vàng trà my bạc - Camellia doroyana ở xã Đạ Huoai năm 2012
TS. Phạm S đã nghiên cứu độc lập trà my bạc (Camellia doroyana) từ năm 2012. Đây là một giống trà hoa vàng quý hiếm, đặc hữu của huyện Đạ Huoai cũ, nay là xã Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng, được mệnh danh là "thủ phủ trà hoa vàng" của Việt Nam.

(Nguồn: ảnh internet)
Điều thú vị có nhiều loài trà my được đặt theo tên các nhà khoa học như: TS Lê Văn Hương có tên trà my mới là đa tử trà hương Polyspora huongiana; TS Phạm S có tên loài trà my mới Camelli sphamii; Camellia quancuongii; camellia ninhii; Camellia thuanana; Nguyễn Ngọc Quỳnh có tên loài trà my mới Camellia quynhii; PGS,TS.BS Nguyễn Hoàng Bắc có tên loài trà my mới Camellia hoangbacii, với các công bố chủ yếu trên Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt và International Camellia Journal.

Thu hoạch chè (Nguồn: ảnh internet)
Với điều kiện ở Lâm Đồng, có nhiều tiểu vùng sinh thái thuận lợi, độ cao 800-1.500m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có sương mù bao phủ và đất bazan màu mỡ, Lâm Đồng sở hữu tiềm năng lớn để phát triển chè cao sản: TB14, LĐ 97; chè chất lượng cao: Kim Tuyên, Tứ Quý, Ngọc Thúy để mở rộng thị trường toàn cầu. Nghiên cứu bảo tồn và phát triển quần thể trà xanh cổ ở khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng; nghiên cứu và thương mại trà hoa vàng ở Đạ Huoai, Di Linh, trà my ở Đà Lạt, Lạc Dương, Mê Linh…. Trà my phù hợp với nhiều vùng sinh thái ở Lâm Đồng trồng cảnh quan không chỉ ở tỉnh Lâm Đồng mà còn phục vụ thị trường các tỉnh miền Đồng, miền Tây Nam bộ; có giải pháp quản lý bảo tồn, phát triển và thương mại hóa họ chè ở Lâm Đồng góp phần phát triển kinh tế địa phương, chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.












