Tổ quốc biên cương liền một dải - Bài 1: 'Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước'

Năm mươi năm đất nước hoàn toàn được giải phóng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã định vị quốc gia Việt Nam phát triển hùng cường. Những ngày này, khắp nơi trên cả nước đâu đâu cũng hân hoan mừng ngày chiến thắng 30/4, nhân dân được sống trong hòa bình, hạnh phúc.

Khối sĩ quan Bộ đội Biên phòng tham gia Tổng duyệt Lễ diễu binh, diễu hành sáng 27/4/2025. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN

Khối sĩ quan Bộ đội Biên phòng tham gia Tổng duyệt Lễ diễu binh, diễu hành sáng 27/4/2025. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN

Ở phía Nam, trong hàng quân danh dự diễu hành qua quảng trường Thống Nhất có các khối sĩ quan Bộ đội Biên phòng (BĐBP) đại diện cho hàng nghìn cán bộ chiến sĩ đang ngày đêm tuần tra canh gác, giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, đấu tranh với các loại tội phạm để đất nước bình yên. Các anh đang viết tiếp những trang sử hào hùng lực lượng Bộ đội Biên phòng đã dày công vun đắp.

Trong hành trình theo Đoàn Văn công BĐBP đi lưu diễn các tỉnh phía Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xe chúng tôi đi dọc con đường Hồ Chí Minh. Những cung đường biên giới rộn ràng giọng khèn, tiếng chiêng, nhịp trống của bà con các dân tộc trên biên giới. Những cửa khẩu, cảng biển tấp nập nhịp sống ấm no, phát triển. Nhìn dáng đứng của người lính biên phòng, lại nhớ đến hành trình xuân của những người lính quân hàm xanh 40 năm trước làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và thực hiện tiếp quản, xây dựng các đồn trạm biên phòng trên những vùng mới giải phóng.

Đi ngược lại thời gian tìm dấu chân người lính trên biên giới, chúng ta càng thấm đẫm khí phách anh hùng của những chiến sĩ năm xưa. Năm 1969, nhằm cứu vãn cục diện chiến trường tại miền Nam Việt Nam, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ điên cuồng tổ chức chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai cho tới năm 1972. Song chúng đã thất bại thảm hại trước tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu kiên cường của quân dân miền Bắc. Chiến thắng vẻ vang của ta trên mọi chiến trường đã buộc chính quyền Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Sau chiến thắng Phước Long, nhận thấy sự tương quan lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Hội nghị Bộ Chính trị từ ngày 30/9 đến 7/10/1974 đã bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 và nhấn mạnh, cần phải tranh thủ thời cơ thực hiện “Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa”. Vậy là suốt hai tháng mùa xuân năm 1975, chúng ta đã tiến hành ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.

Trong thời khắc trọng đại của dân tộc, lực lượng công an nhân dân vũ trang đã xác định phải bảo vệ vững chắc biên giới miền Bắc, đồng thời tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam, với phương châm “trước vững, sau mạnh”. Các lớp tập huấn về công tác tiếp quản cấp tốc được Bộ công an tiến hành. Trong vòng mười năm, từ 1964 đến tháng 5 năm 1975, lực lượng công an nhân dân vũ trang đã cử 2.925 cán bộ chiến sĩ an ninh vũ trang và các đơn vị B17, B18, B19… vào chiến trường miền Nam phối hợp chiến đấu.

Tại khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang đã cử nhiều đoàn công tác vào làm việc với Trung ương Cục cùng các đồng chí Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt để khảo sát tình hình triển khai lực lượng bản vệ biên giới, hiệp đồng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và thực hiện tiếp quản, xây dựng các đồn trạm biên phòng trên vùng mới giải phóng.

Chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang tuần tra kiểm soát vùng cửa biển Cam Ranh. Ảnh: Tư liệu

Chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang tuần tra kiểm soát vùng cửa biển Cam Ranh. Ảnh: Tư liệu

Đại tá Bùi Long, nguyên Cục trưởng Cục Chính trị BĐBP trò chuyện với chúng tôi rất tâm đắc khi nhớ lại: Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới bờ biển tại các các vùng tự do thuộc cách mạng quản lí, trước đại thắng mùa xuân năm 1975, hàng loạt các đồn trạm biên phòng, chốt kiểm soát của lực lượng công an nhân dân vũ trang đã được thiết lập trên các tuyến biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia. Ngày 27/1/1973, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, An ninh vũ trang miền Nam đã triển khai thành lập và xây dựng hai đồn biên phòng Lò Gò, Xa Mát tại Tây Ninh. Đây là hai đồn biên phòng đầu tiên được thành lập trên tuyến biên giới Việt nam - Campuchia.

Bên cạnh đó cũng đồng thời cho triển khai các cơ sở đầu tiên để chuẩn bị cho việc xây dựng một hệ thống đồn trạm biên phòng trên toàn bộ biên giới miền Nam Việt Nam sau này.

Sau hiệp định Paris, chiến trường Trị Thiên Huế chia thành hai khu vực: Vùng giải phóng chiếm 83% diện tích, vùng địch kiểm soát chiếm 17%, lấy sông Thạch Hãn là đường ranh giới. Nhân dân đã đổ ra đường chào đón hòa bình, chào đón quân giải phóng. Lực lượng an ninh vũ trang Quảng Trị lúc này phải quản lí tuyến biên giới Việt - Lào và đoạn bờ biển của vùng mới giải phóng. Các đồn biên phòng Lao Bảo, phân đội 3 bảo vệ cảng Đông Hà, phân đội 190 bảo vệ Cửa Tùng, đồn biên phòng 170 Cửa Việt, trạm kiểm soát Nam Hiền Lương đã nhanh chóng được triển khai xây dựng trong nửa đầu năm 1973.

Vừa xây dựng đồn trạm mới, các chiến sĩ quân hàm xanh nơi đây vừa tập trung giúp đỡ nhân dân xây lại những nếp nhà trên đống hoang tàn, đổ nát. Các trạm an ninh trở thành điểm tựa cho bà con giữa lúc bộn bề hậu chiến. Thực hiện chủ trương của Đảng ta lúc bấy giờ là “hòa hợp dân tộc”, những chiến sĩ công an vũ trang đã chủ động tiếp xúc, giao lưu với những người lính phía bên kia. Qua hàng rào kẽm gai, họ chia nhau điếu thuốc, nói chuyện quê hương, bản quán. Có tiếng gọi nào cao hơn tiếng gọi của Tổ quốc, của lòng yêu nước, thương nòi; Có sức mạnh nào cao hơn sức mạnh của chính nghĩa, nhiều binh sĩ, sĩ quan ngụy đã thực sự chuyển biến tư tưởng, buông súng đầu hàng.

Cũng tại Quảng Trị, các chiến sĩ an ninh vũ trang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho 4 đợt bàn giao và trao đổi tù binh bên bờ Thạch Hãn. Các anh đã chứng kiến biết bao câu chuyện cảm động của những chiến sĩ trong giờ phút trở về từ nhà tù của địch.

Thượng tá Trần Anh Tuấn, cán bộ công an nhân dân vũ trang, thành viên phái đoàn giám sát quốc tế của Việt Nam đã xúc động vô cùng khi chứng kiến nhiều tù nhân kiên trinh sau khi qua bờ Bắc liền cởi bỏ trang phục cùng mọi thứ mang theo ném trả về bờ Nam. Những người tù khổ sai ốm yếu, mang trong mình di chứng của bao lần bị địch tra tấn… đều được các chiến sĩ dìu dắt, chăm sóc tận tình. 40 năm sau, trò chuyện cùng tôi về những ngày tháng ấy, ông bảo rằng đó thực sự là ấn tượng khó quên trong đời, bởi cảm thấy sao mà thương yêu, trân quý những chiến sĩ của ta quá đỗi.

Giữa lúc những chiến sĩ công an nhân dân vũ trang Quảng Trị bận rộn với hàng trăm nhiệm vụ trong vùng mới giải phóng thì ngày 10/3/1975, ta đã mở một chiến dịch then chốt, giáng đòn quyết định vào Buôn Ma Thuột. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, hơn 10 vạn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu; hơn 60 vạn dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên được giải phóng, cùng cất cao tiếng hát tự do. Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, cũng trong tháng 3/1975, chiến dịch Xuân Hè ở Trị Thiên – Huế bắt đầu các hoạt động quân sự nghi binh. Các phân đội an ninh vũ trang dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy mặt trận đã luồn sâu vào vùng địch, cùng các lực lượng địa phương đồng loạt nổ súng nổi dậy tại chín huyện ven đô Trị Thiên.

Trong trận đánh giải phóng Hải Lăng, đồng chí Trương Đức Ninh, chiến sĩ phân đội 201 đã một mình sử dụng B40, tiểu liên và thủ pháo, diệt 12 tên địch. Phá vây không thành, đồng chí bị thương và bị địch bắt giam.

Chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang tuần tra bảo vệ cảng Đà Nẵng. Ảnh: Tư liệu

Chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang tuần tra bảo vệ cảng Đà Nẵng. Ảnh: Tư liệu

40 năm sau, chứng kiến sự đổi thay mạnh mẽ và bền vững của Đà Nẵng, đại tá Nguyễn Thành Mai, chiến sĩ an ninh vũ trang tham gia tiếp quản 10 tỉnh Trung Trung Bộ, thành viên ban quân quản vẫn cảm thất rất tự hào. Ông Mai kể: “Ngày 26/3, Huế hoàn toàn giải phóng. Ta đã đánh tan tập đoàn phòng thủ của địch gồm 4000 quân thiện chiến nhất của chúng tại chiến trường này. Dẫu vẫn còn ngổn ngang dấu tích của những cuộc di tản, tháo chạy dẫm đạp lên nhau, song cố đô đã trở nên bình yên biết mấy khi những em thơ theo đoàn người đi dọc Trường Tiền chào đón hòa bình.

Thanh niên Huế hát vang bài ca cách mạng bấy lâu nay dấu diếm chỉ dám hát thầm và những người lính một thời lầm đường lạc lối vứt súng về lại quê nhà, làm ăn lương thiện. Công an nhân dân vũ trang Vĩnh Linh, Quảng Bình đã kịp thời chi viện để an ninh vũ trang Trị Thiên Huế vừa tiến quân về chốt giữ các mục tiêu phía trước, vừa bảo vệ vững chắc tuyến sau, đồng thời góp phần đưa hơn 10 vạn dân từ Đà Nẵng - Huế trở về quê cũ”.

3 ngày sau giải phóng Huế, lúc 15 giờ ngày 29/3, sau khi giải phóng Tam Kì, Quảng Ngãi, quân ta đã chiếm lĩnh toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng và hoàn toàn làm chủ thành phố Đà Nẵng. Từ những căn cứ khác nhau, các đơn vị an ninh vũ trang có 3 đại đội vào Đà nẵng và một phân đội và thị xã Hội An với phương châm “đánh địch mà đi”. Công tác tiếp quản các công sở của chế độ cũ như Ty cảnh sát Đà Nẵng, cơ sở tình báo CIA… được tiến hành nhanh chóng. Các cơ sở kinh tế, văn hóa được bảo đảm an toàn, dòng điện thắp sáng cho thành phố được duy trì ổn định, giúp các công xưởng cũng như đời sống của người dân diễn ra bình thường.

Sau Đà Nẵng là các tỉnh thuộc đồng bằng khu 5 từ Phú Yên, Khánh Hòa tới Ninh Thuận, Bình Thuận được giải phóng. Đồng chí Nguyễn Ngọc Châu, nguyên đại đội trưởng An ninh vũ trang Phú Yên cho biết, tuy không có những trận đánh ác liệt với hỏa lực mạnh như chiến trường khác, song đã có rất nhiều các chiến sĩ an ninh vũ trang hi sinh trên đường tiến vào giải phóng khu 5 bởi những loạt đạn bắn tỉa của của một số kẻ ngoan cố đang trên đường rút chạy.

Nén lại đau thương và căm hận, mệnh lệnh truyền đi khắp các đơn vị cơ sở là phải triển khai tích cực các biện pháp nhằm ổn định tình hình ngay từ những ngày đầu. Và chỉ vài ba ngày sau giải phóng, những hàng dừa lại líu ríu bóng trẻ thơ hái quả. Những làng biển đã bắt đầu có bóng thuyền ra lộng vào khơi bởi vững lòng hơn khi có bóng người chiến sĩ an ninh gác nơi cửa bể. Một cuộc sống mới lại bắt đầu.

Bài cuối: ‘Vui sao nước mắt lại trào’

V.T/Báo Tin tức và Dân tộc

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/thoi-su/to-quoc-bien-cuong-lien-mot-dai-bai-1-xe-doc-truong-son-di-cuu-nuoc-20250429145649916.htm