TỌA ĐÀM: 'Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững'
Từ 10h ngày 25/1, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm 'Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững' với sự tham dự của các vị khách mời là Đại biểu Quốc hội, lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp để hệ thống hóa, phân tích, kiến giải, luận bàn... về các giải pháp quản lý thị trường vàng.
Với tính chất một sản phẩm hàng hóa đặc thù, có tính thanh khoản cao; đồng thời cũng là tài sản cất trữ, nguồn vốn lưu thông, kênh đầu tư quan trọng của thị trường… Có thể nói, vàng có vai trò và vị trí hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia nói chung và của nước ta nói riêng.
Thời gian qua, các cơ chế, chính sách về quản lý, phát triển thị trường vàng ở nước ta được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm, không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Qua đó, thị trường vàng cơ bản có sự phát triển ổn định, có những đóng góp hết sức hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường vàng của Việt Nam cũng còn những tồn tại, bất cập trong công tác quản lý, xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau liên quan đến cơ chế, chính sách, tâm lý người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư… Từ đó đã kiến một lượng lớn kim loại quý hiếm này bị "đóng băng", chôn chặt trong két của người dân; không có sự liên thông, liên hoàn giữa thị trường vàng trong nước với thị trường vàng thế giới; biên độ, sự chênh lệnh về giá vàng giao dịch trong nước và thế giới ở một số thời điểm là rất lớn; nhiều hoạt động trong giao dịch của thị trường vàng còn méo mó; xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng vàng để trục lợi…
Vừa qua, trước những diễn biến phức tạp của thị trường trong nước làm giá vàng biến động mạnh, tăng cao, khoảng cách chênh lệnh giữa giá vàng trong nước và thế giới lớn, có thể gây nên những rủi ro, tác động tiêu cực đến sự an toàn của thị trường tài chính, tiền tệ, nền kinh tế và tâm lý xã hội… Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Công điện 1426/CĐ-TTg ngày 27/12/2023 về các giải pháp quản lý thị trường vàng với những yêu cầu, nhiệm vụ rất quyết liệt, đồng bộ và cụ thể đối với các bộ, ngành chức năng, trong đó nhấn mạnh yêu cầu: "Dứt khoát không để tình trạng 'vàng hóa' nền kinh tế, không để tác động tiêu cực đến tỉ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ, ngoại hối và an toàn, an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia".
Vậy, làm gì để tiếp tục phát huy được sự đóng góp tích cực của thị trường vàng đối với nền kinh tế; đâu là những điểm "nghẽn" và "nút thắt" của thị trường vàng hiện nay với tư cách là nguồn vốn lưu thông, kênh đầu tư quan trọng của thị trường; dự báo xu thế phát triển thị trường vàng thời gian tới; giải pháp nào để phát triển an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững;… thị trường vàng trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang có sự phục hồi mạnh sau dịch COVID – 19…? Hôm nay, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững" với sự tham dự của các vị khách mời là Đại biểu Quốc hội, lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp để hệ thống hóa, phân tích, kiến giải, luận bàn... về vấn đề này.
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm gồm:
- GS.TS. Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội
- Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam
- TS. Trần Thọ Đạt – Chuyên gia kinh tế, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (tham dự theo hình thức trực tuyến)
- Ông Nguyễn Việt Anh – Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TP Bank
Từ thực tế cho thấy, thị trường vàng có những diễn biến hết sức phức tạp thời gian vừa qua, trong đó sự chênh lệnh về giá vàng giao dịch giữa trong nước và thế giới là rất lớn. Xin hỏi GS.TS. Hoàng Văn Cường, đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và ông có thể phân tích thêm những "nút thắt" trong công tác quản lý thị trường vàng, nhất là những hạn chế, bất cập liên quan đến cơ chế, chính sách trong đó có những vướng mắc cần được rà soát, tháo gỡ, sửa đổi ở Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
GS.TS. Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội: Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng ra đời năm 2012. Thời điểm đó, vàng đang được coi như một phương tiện thanh toán, gần như là tiêu dùng vàng thay cho tiền; hầu như những quan hệ gì giá trị lớn là quy thành vàng. Chúng ta nói rằng thời kỳ đó là thời kỳ "vàng hóa nền kinh tế". Nếu cứ để tình trạng đó diễn biến thì sẽ gây rất nhiều hệ lụy. Hệ lụy chúng ta nhìn thấy điển hình nhất chắc chắn là vấn đề chúng ta bảo vệ giá trị đồng tiền sẽ không được ổn định và vàng giao dịch như thế người ta không thể tin tưởng được đồng tiền nữa. Vàng giao dịch như thế dẫn đến chuyện chúng ta không thể quản lý được vấn đề xuất nhập khẩu và ngoại hối, từ đó dẫn đến chuyện không thể quản lý được vấn đề tỉ giá. Không quản lý được tỉ giá lại làm mất giá trị đồng tiền.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP nhằm hạn chế tình trạng "vàng hóa", dùng vàng để thay thế các công cụ thanh toán. Tôi cho rằng chúng ta ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP rất kịp thời. Trên thực tế, chúng ta nhìn thấy trong những năm qua, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP đã phát huy tác dụng khá tốt. Gần như chúng ta đã chấn chỉnh được tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch.
Tuy nhiên, đến nay, tình hình đã thay đổi rất nhiều. Về kinh tế vĩ mô, về quan hệ tài chính, tiền tệ, quan hệ quốc tế… có rất nhiều thay đổi. Trong những thay đổi như thế, chúng ta vẫn đang duy trì Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Nghị định số 24/2012/NĐ-CP này quy định rất chặt chẽ: Nhà nước là cơ quan độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền trong quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Thực tế những năm qua, hầu như Nhà nước lấy một thương hiệu vàng SJC là thương hiệu vàng quốc gia. Vàng ngoài độc quyền thì đáng sản xuất vẫn phải sản xuất, phải cung ra, nhưng trên thực tế thì hầu như không có chuyện sản xuất thêm vàng miếng. Chính vì vậy, tâm lý của người dân Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay liên quan đến chuyện tích trữ để đảm bảo an toàn, phòng tránh rủi ro. Và trong các phương tiện tích trữ thì đương nhiên vàng là một phương tiện tích trữ đảm bảo nhất. Đấy là cả thế giới chứ không riêng Việt Nam nhưng Việt Nam thì tâm lý truyền thống đó cao hơn.
Trong bối cảnh người ta cần có tích lũy như thế mà vàng miếng là vàng tích lũy, vàng SJC lại được xác định là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên người dân tích lũy sẽ chọn vàng tin cậy nhất. Mặc dù SJC và các vàng miếng khác có thể cùng chất lượng như nhau nhưng đây là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên đấy là vàng được tin cậy. Tích lũy bao giờ cũng đảm bảo an toàn nhất nên người ta đều mong muốn mua, tích lũy, sở hữu vàng SJC. Trong khi cung không có mà cầu có thực thì đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu và giá vàng sẽ tăng.
Vàng không có nhập khẩu có nghĩa là gì? Chúng ta không có chuyện liên thông. Ví dụ trong nước giá cao, chúng ta nhập khẩu vào để cân bằng. Nếu trong nước giá thấp, thế giới giá cao, xuất khẩu ra để cân bằng. Nhưng đây không có quan hệ xuất nhập khẩu như thế. Như vậy không có việc chúng ta cân bằng được giữa thị trường vàng trong nước và thế giới dẫn đến tình trạng thế giới có thể tăng một chút thì trong nước tăng rất cao. Như chúng ta biết, có những thời kỳ tăng đến 20 triệu một lượng. Điều này là rất phí lý. Khi có tình trạng không liên thông dẫn đến tăng như thế, rõ ràng hậu quả xảy ra sẽ rất lớn. Đầu tiên, đương nhiên những người có nhu cầu sở hữu vàng, cất trữ vàng sẽ bị thiệt hại, phải mua vàng với một cái giá rất cao.
Thứ hai, không bình đẳng giữa những vàng miếng như nhau, có thể chất lượng cùng 9999 như nhau nhưng vàng tên SJC Nhà nước bảo hộ thì giá rất cao. Các vàng khác không được bảo hộ thì đương nhiên giá sẽ thấp.
Thứ ba, sẽ nguy hại không phải chỉ riêng cho người dân mà còn thiệt hại về mặt xã hội. Khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới chênh lệch nhiều đến như thế sẽ sinh lợi cho việc nhập lậu vàng. Nhà nước không cấp phép nhập vàng thì người ta sẽ buôn lậu. Chúng ta đều biết khi lợi nhuận càng cao, tình trạng buôn lậu sẽ diễn ra càng lớn bởi vì giữa lợi nhuận và xác suất bị phát hiện khi buôn lậu, người ta sẵn sàng buôn lậu vì dù có thể bị bắt giữ, người ta vẫn có thể bù lại được. Nên tình trạng buôn lậu sẽ tăng lên khi chênh lệch giá cao. Buôn lậu tăng lên như thế thì rõ ràng không thể nói chúng ta quản lý được tốt thị trường vàng được, thất thu thuế, không tạo ra một thị trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng. Và đã buôn lậu thì sẽ vẫn có tình trạng thất thoát về ngoại tệ.Chúng ta không quản lý được ngoại tệ cũng có thể dẫn đến chuyện quản lý tỉ giá.
Đứng trước tình trạng đó, trong tình hình hiện nay, rất cần có sự thay đổi về phương thức quản lý. Chắc chắn chúng ta phải nghĩ đến chuyện thay đổi, sửa đổi quy định Nghị định số 24/2012/NĐ-CP này. Chẳng hạn, bây giờ không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng. Có lẽ vàng là một hàng hóa khá thông thường, mọi người đều có thể sử dụng và Nhà nước quản lý mặt hàng này rất dễ, không nhất thiết phải độc quyền. Tôi cho rằng phải xem lại xem có nhất thiết phải độc quyền hay không.
Rồi chúng ta có thể cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất vàng miếng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Khi cung được tự do, được cạnh tranh bình đẳng thì người dân tiếp cận vàng tích lũy sẽ dễ hơn, sẽ không còn tình trạng khan hiếm nữa. Tâm lý càng khan hiếm càng giá tăng, càng đi mua. Giờ không khan hiếm nữa thì sẽ đỡ hơn.
Yếu tố nữa là cần có liên thông giữa thị trường trong nước và quốc tế. Thị trường vàng là một thị trường liên thông quốc tế rất mạnh. Sự biến động của thị trường quốc tế ngày hôm nay thế này thì thị trường quốc gia khác biến động ngay lập tức. Vậy thì chúng ta cũng phải bỏ các công cụ để liên thông thị trường vàng trong nước với quốc tế, chẳng hạn như vấn đề xuất nhập khẩu. Tất nhiên, xuất nhập khẩu ở đây phải có phương thức quản lý phù hợp. Không phải cứ duy trì một cơ chế như trước đây là cấp phép, cấp quota theo dạng "xin-cho" mà có thể sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu đó. Tất nhiên phải quản lý để tránh tình trạng ồ ạt dùng ngoại tệ nhập vàng vào cho mục đích khác, làm mất cân đối ngoại tệ, mất khả năng điều hành tỉ giá.
Và chúng ta cũng phải có các phương thức giao dịch đa dạng hơn chứ không phải người dân ai cũng mong muốn tích trữ thì cứ việc quay sang mua vàng miếng. Đấy người ta gọi là sử dụng, mua bán vàng vật chất. Trong Nghị định số 24/2012/NĐ-CP cũng có một điều xác định vấn đề kinh doanh vàng trên tài khoản, nhưng toàn bộ nội dung không hề mở ra một chút nào về vấn đề kinh doanh tài khoản nên trong nước chỉ có chuyện mua bán vàng vật chất. Trong khi đó, bây giờ xu thế giao dịch của thế giới là mở ra phương thức kinh doanh trên sàn kinh doanh thông qua hợp đồng kinh doanh, thông qua các tín chỉ về vàng. Vậy nếu chúng ta mở thêm các hình thức kinh doanh vàng qua tài khoản thì khi đó sẽ không bị lệ thuộc quá vào việc nhập khẩu nhiều vàng vào hay ít vàng vào mới có vàng mà người ta có thể sử dụng các công cụ như công cụ phái sinh sẽ cân đối được ngay cung cầu. Như vậy chúng ta sẽ điều hành rất linh hoạt và đặc biệt khi đó không còn tình trạng người dân mua vàng về xong để trong nhà tích trữ, làm chết một khối lượng tiền ở đấy. Khi chúng ta giao dịch vàng trên tài khoản thì người ta không nhất thiết phải mang vàng về nhà, không phải mất công cất trữ, vàng đó được lưu thông ở trên thị trường, sẽ tạo ra sinh lợi, tạo nguồn vốn đưa vào lưu thông, mang lại nhiều tác động tốt cho nền kinh tế cũng như đảm bảo lợi ích của mỗi người dân.
10:17 ngày 25/01/2024
Được biết, trong thời gian qua, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đã phối hợp với Hội đồng vàng thế giới có những chuyến thăm, làm việc và học hỏi kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của các nền kinh tế lớn trong khu vực và thế giới. Xin ông Nguyễn Thế Hùng, chia sẻ một số kinh nghiệm về mô hình, cách thức quản lý thị trường vàng đang được áp dụng phổ biến và hiệu quả trên thế giới?
Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam: Theo thông lệ quốc tế, người ta coi vàng là một loại hàng hóa. Và quy định có hai loại vàng là vàng vật chất và vàng phi vật chất. Vàng vật chất bao gồm vàng thỏi, vàng miếng, đồng tiền vàng, trang sức. Còn vàng phi vật chất bao gồm vàng tài khoản và các chứng chỉ về vàng được giao dịch rất thông dụng trên thị trường. Trong Nghị định 24/2012/NĐ-CP chỉ đề cập đến vàng vật chất, đặc biệt vàng miếng được chọn là thương hiệu quốc gia và được Nhà nước độc quyền sản xuất và kinh doanh.
Trên thế giới, theo khảo sát của chúng tôi và rất nhiều hội thảo, đồng thời cũng đã có cuộc làm việc với Hội đồng Vàng Thế giới đều khẳng định rất rõ là các nước trên thế giới, kể cả các nền kinh tế lớn, các ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng bởi họ quan niệm vàng là một loại hàng hóa thông thường. Tại các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan thì có Bộ Thương mại hoặc Bộ Công thương, Bộ Kinh tế quản lý. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về ngoại hối, điều tiết các dòng tiền ngoại tệ. Và các ngân hàng Trung ương ở các nước chỉ có vai trò dự trữ quốc gia, điều phối vàng như là một tài sản để dự trữ quốc gia. Đây là một công cụ để bảo đảm an ninh tiền tệ. Như vậy, ngân hàng Trung ương ở các nước không trực tiếp quản lý vàng.
Chính vì thế, vai trò như là ngân hàng Trung ương trong Nghị định 24 phát huy trong thời điểm mà thị trường vàng có những lộn xộn. Đến bây giờ, chúng ta vẫn duy trì việc độc quyền SJC sẽ dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về giá vàng, mà thực tế đã chứng minh như vậy. Ở Việt Nam, người dân coi vàng như là một phương tiện để tích trữ và phòng ngừa lạm phát, rủi ro. Nhưng chúng ta cũng thấy, đến bây giờ, giá trị đồng tiền Việt Nam rất ổn định; tỉ giá cũng rất ổn định. Chính vì thế người dân không dùng vàng để làm phương tiện thanh toán và không có khái niệm "vàng hóa". Bây giờ trên thị trường, không ai sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán nữa. Vì thế, nếu chúng ta không khuyến khích người dân tích trữ vàng miếng nữa, theo chủ trương của Nhà nước là tập trung vào sản xuất trang sức để tăng giá trị thặng dư, tập trung vốn vào sản xuất và xuất nhập khẩu, thì phải xem xét lại cách thức quản lý thị trường vàng hiện nay. Nếu chúng ta quan niệm giống như các nước trên thế giới, vàng là một loại hàng hóa thì Ngân hàng Nhà nước không quản lý trực tiếp thị trường vàng nữa.
10:21 ngày 25/01/2024
Trước những diễn biến phức tạp của thị trường vàng trong nước vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Công điện 1426 và ngay tức khắc, công điện này đã phát huy tác dụng đối với thị trường. Là chuyên gia kinh tế, ông Trần Thọ Đạt có nhận định, đánh giá như thế nào về tính kịp thời của công điện, cũng như ý nghĩa của các giải pháp được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trong công điện trước những biến động mạnh, sự "nhảy múa" của giá vàng như đã diễn ra trong thời gian vừa qua?
Chuyên gia kinh tế Trần Thọ Đạt: Tôi cho rằng Công điện 1426 của Thủ tướng Chính phủ ra đời vào ngày 27/12/2023 rất đúng lúc, nhất là trong lúc thị trường vàng trong nước so với thị trường vàng quốc tế có sự biến động rất mạnh về giá. Tôi nhớ buổi sáng hôm đó, giá vàng SJC vươn tới mức đỉnh cao kỷ lục so với từ trước đến nay, giá bán ra khoảng 80 triệu đồng/lượng. Trong công điện này đã chỉ rõ, trong thời gian vừa qua, thị trường vàng thế giới và trong nước diễn biến khá phức tạp. Giá vàng trong nước thì biến động mạnh, tăng nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của thị trường vàng thế giới và như vậy sẽ tiềm ẩn, tác động tiêu cực đến an toàn thị trường tài chính, tiền tệ, cũng như tâm lý xã hội. Công điện này đã đưa ra một số biện pháp, chỉ đạo mang tính chất rất căn cơ và rất kịp thời để ổn định và phát triển thị trường vàng theo phương châm thị trường vàng phải an toàn, lành mạnh, phát triển hiệu quả và bền vững. Do vậy, tôi thấy tọa đàm này có chủ đề "Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững" là bám sát và kịp thời với tinh thần chỉ đạo nội dung công điện của Thủ tướng. Công điện này có nhiều nội dung liên quan đến giải pháp cho giá vàng.
Thứ nhất là, khẩn trương thực hiện ngay cách giải pháp để bình ổn thị trường vàng.
Thứ hai, công điện khẳng định là dứt khoát không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế quay lại, không để tác động tiêu cực của giá vàng đến các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản như tỉ giá, lãi suất, ngoại hối và sự an toàn của tiền tài chính quốc gia.
Đồng thời công điện cũng khẳng định cần khẩn trương có các giải pháp hiệu quả để quản lý, điều hành giá vàng miếng trong nước theo nguyên tắc thị trường, không để tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và trên thế giới ở mức cao như trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có trọng tâm, trọng điểm đối với thị trường vàng, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, ở các cửa hàng và đại lý có tuân thủ các quy định pháp lý về giá vàng hay không.
Công điện cũng có một nội dung rất quan trọng là cần khẩn trương xem xét lại Nghị định 24 ra đời năm 2012 so với bối cảnh bây giờ đã rất khác nhiều, để có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của thị trường tài chính tiền tệ cũng như diễn biến của giá vàng thế giới.
Ở đây, tôi xin nêu ra 3 vấn đề liên quan đến nội dung của công điện. Thứ nhất là công điện yêu cầu không để tình trạng chênh lệch giá vàng miếng giữa thị trường trong nước và giá vàng quốc tế ở mức cao như trong thời gian vừa qua. Đây chính là chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC với giá vàng quốc tế. Theo số liệu thống kê và quan sát của chúng tôi, trong, trước và sau Nghị định 24, ở Việt Nam có hai loại chênh lệch giá vàng. Trước hết là chênh lệch giữa giá vàng nguyên liệu 24K (tức là vàng 9999) với giá vàng thế giới và chênh lệch giữa giá vàng SJC so với giá vàng 9999. Số liệu thống kê cũng cho thấy, giá vàng nguyên liệu 24K của chúng ta so với giá vàng thế giới không có chênh lệch nhiều. Sự không chênh lệch này diễn ra trong cả 12 năm vừa qua (khi Nghị định 24 ban hành đến nay). Ví dụ, giá vàng thế giới đang ở khoảng 2.030 usd/ounce, không kể thuế và phí thì tương đương mức giá vàng ở trong nước vào khoảng 62 triệu đồng/lượng. Giá vàng 24K của Việt Nam, tính cả thuế và phí nữa, sẽ ở mức 64-65 triệu đồng/lượng. Tôi nghĩ đây là một mức giá hợp lý. Vấn đề đáng nói là công điện của Thủ tướng Chính phủ cũng lưu ý việc chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC là quá cao; và như các nhà kinh tế cũng như báo chí thường nói, giá vàng SJC hiện nay "một mình một chợ". Lúc giá vàng SJC lên đỉnh điểm 80 triệu thì mức chênh lệch khoảng 20 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế giới. Đây là một điều rất bất hợp lý.
Ngoài ra, tôi thấy tính kịp thời của Công điện 1426 còn thể hiện ở chỗ ngay sau khi công điện được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, lập tức giá vàng SJC lúc đó giảm mạnh trong vòng một tiếng đồng hồ từ 80 triệu đồng/lượng xuống còn 73 triệu đồng/lượng, tức là giảm 8%. Như vậy, công điện mới chỉ thể hiện ở phần chỉ đạo thôi đã tác động kịp thời, giảm ngay chênh lệch đó.
Hai vấn đề cũng rất quan trọng trong công điện 1426 là dứt khoát không để quay lại thị trường vàng hóa và không để giá vàng biến động, tác động tiêu cực đến an toàn thị trường tài chính nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Tôi nghĩ rằng đây là một sự nhắc nhở đối với cơ quan điều hành chính sách quản lý tiền tệ và thị trường vàng là không được chủ quan với 2 nội dung này.
Cũng cần khẳng định thêm là Nghị định 24 cũng đã có những thành công rất lớn trong việc ngăn chặn cũng như chấm dứt tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế Việt Nam 12 năm qua. Còn tác động của giá vàng đối với sự an toàn thị trường tài chính, đặc biệt là biến động đến các biến số kinh tế vĩ mô thì theo số liệu của chúng tôi theo dõi trong 12 năm qua, mức độ tương quan biến động của giá vàng so với các biến số kinh tế vĩ mô khác, cụ thể là biến động của tỉ giá, biến động của lạm phát, là rất thấp. Mức độ tương quan chỉ ở mức 0,1 và 0,2, thậm chí có lúc là tương quan âm (-). Tôi cho rằng đây là kết quả rất đáng ghi nhận của Nghị định 24 trong việc góp phần ổn định an toàn của nền tài chính quốc gia, ổn định các biến số của nền kinh tế vĩ mô. Vấn đề cần quan tâm ở đây là sự chênh lệch giữa vàng miếng SJC với giá vàng quốc tế hiện nay đang ở mức rất cao thì công điện cũng chỉ rõ nguyên tắc là phải điều hành theo cơ chế thị trường, phải khơi thông cung - cầu. Và đặc biệt, thị trường vàng trong nước phải liên thông, bảo đảm phù hợp với biến động của giá vàng thế giới.
Như vậy, định hướng về giải pháp ở đây rất rõ ràng. Vấn đề là cách làm hiện nay như thế nào. Tôi cho rằng, về điều hành theo cơ chế thị trường, tức là chúng ta cần phải làm cho cung - cầu gần nhau theo hướng không chênh lệch giữa giá vàng thế giới so với giá vàng trong nước. Theo tôi, nếu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phải độc quyền vàng miếng SJC thì cần gia tăng Quỹ dự trữ vàng và sẵn sàng tăng cung vàng miếng một khi giá vàng SJC cao hơn bất thường so với giá vàng thế giới để bình ổn giá.
10:30 ngày 25/01/2024
Sự chênh lệnh giá vàng quá lớn giữa trong nước và nước ngoài thời gian gần đây đã làm hạn chế sự hội nhập và liên thông giữa thị trường vàng Việt Nam và thế giới. Lợi dụng tình hình, đã xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các hành vi buôn lậu, thao túng, đầu cơ vàng để trục lợi; dẫn đến thị trường vàng đôi lúc bị méo mó, phi thị trường... Ông có cho rằng đây là những vấn đề nghiêm trọng và cần phải tập trung xử lý rốt ráo, dứt điểm bằng những giải pháp khả thi, đồng bộ để không để tái diễn tình trạng này trong thơi gian tới?
Ông Nguyễn Thế Hùng: Đúng như vậy, việc chênh lệch giá vàng quốc tế với giá vàng trong nước quá lớn như vậy gây ra hậu quả không tốt cho thị trường. Thực tế người dân không được hưởng lợi khi phải mua với giá vàng trong nước rất cao và việc để chênh lệch như thế trong khi không cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu chính thống thì rõ ràng tạo điều kiện cho việc buôn lậu, không kiểm soát được.
Thứ nhất, ngoại tệ để nhập lậu vàng chúng ta không kiểm soát được, thứ hai là bản thân các doanh nghiệp khi đang thực hiện việc sản xuất kinh doanh vàng trang sức có nhu cầu về vàng nguyên liệu thì cũng không biết mua ở đâu cả và mua trôi nổi trên thị trường sẽ rất là rủi ro về mặt pháp luật. Đây cũng là một cản trở cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng trang sức. Chính vì vậy tôi nghĩ rằng để làm cho giá vàng thu hẹp lại khoảng cách và hội nhập với giá quốc tế thì đây là một biện pháp rất cần thiết phải thực hiện.
Một thực tế khác là khi giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì chúng ta xuất khẩu cũng không được, bởi vì từ năm 2012 đến nay sau khi có Nghị định 24, việc xuất khẩu vàng dưới 90% mới không phải chịu thuế, còn trên 90% phải chịu thuế. Vừa rồi có thay đổi từ 95% trở lên mới chịu thuế xuất khẩu là 1%. Nhưng chúng ta thấy là mức thuế 1% giá xuất khẩu vàng trang sức thì chi phí rất lớn với các doanh nghiệp và cũng không thể xuất được, chưa nói tới việc giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì càng không thể xuất được rồi.
Theo tổng kết của Hội đồng Vàng Thế giới thì nhu cầu thực tế có những thời gian Việt Nam nhập cao nhất 60 tấn vàng, còn nhu cầu hiện nay (không tính để sản xuất vàng miếng) ít nhất cũng cần 20 tấn vàng nhập khẩu mỗi năm. Nhưng từ năm 2012 đến nay, chúng ta không nhập khẩu một lượng vàng nào cả theo con đường chính thống. Chính vì thế nên không thể cản được việc buôn lậu và hậu quả của nó là chảy máu ngoại tệ. Nhà nước không kiểm soát được nhưng đồng thời các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng trang sức cũng gặp rủi ro trong việc mua bán vàng nguyên liệu trôi nổi trên thị trường.
Thực tế vừa rồi, rất nhiều vụ án buôn lậu vàng lớn đã bị phát hiện, nhưng đó chỉ là những vụ lớn thôi, còn rõ ràng hiện nay do Việt Nam không khai thác được vàng nên câu hỏi đặt ra là số vàng lưu thông trên thị trường hiện nay và số nguyên liệu đó nguồn từ đâu? Còn nếu tính đến nguồn từ các doanh nghiệp thực hiện phân kim để có vàng nguyên liệu mà sản xuất ra thì chiếm tỉ lệ rất thấp (chỉ khoảng 3-4 tấn mỗi năm).
Thứ hai, chúng ta đang làm một quy trình ngược, tức là mua vàng tiêu chuẩn quốc tế 9999 về sản xuất ở Việt Nam để nội địa hóa bằng vàng SJC và nếu mình có nhu cầu xuất khẩu vàng nguyên liệu ra nước ngoài thì vàng SJC đó lại không được công nhận là vàng tiêu chuẩn quốc tế mà phải coi như vàng nguyên liệu. Một doanh nghiệp có vàng trang sức xuất khẩu mà chuyển đổi để xuất khẩu đi thì phải chịu chi phí rất lớn, trung bình từ 12-15 USD cho 1 ounce. Rõ ràng chúng ta nhập vàng về để sản xuất ra vàng miếng là không nên và không nên khuyến khích việc tiêu thụ vàng miếng. Còn nhu cầu của dân, ở các nước ví dụ ngay tại các nước khác chung quanh chúng ta như Lào, người dân không có khái niệm vàng miếng, người ta chỉ mua vàng trang sức 9999 hoặc 999 làm trang sức hay của hồi môn thôi và mặc dù các hãng vàng bán vàng miếng ở đó nhưng người ta vẫn quan niệm giống vàng trang sức và không mua để tích trữ như ở Việt Nam.
Chính vì thế, tôi thấy chủ trương của Ngân hàng Nhà nước không khuyến khích người dân mua bán vàng miếng, tích trữ vàng miếng là rất đúng đắn và chúng ta cần phải bám sát theo chủ trương này để có biện pháp. Tức là khi nhập khẩu vàng không phải để phục vụ sản xuất vàng miếng và khi người dân không quan trọng việc mua vàng 9999 hay vàng miếng, vàng trang sức nữa thì rõ ràng sẽ không có chênh lệch.
Còn một thực tế nữa là hiện nay giá vàng trang sức 9999 trên thị trường vẫn chênh lệch so với giá thế giới khoảng 2,5-3 triệu đồng bởi vì không có nguồn cung, mà trong lịch sử chưa có việc này. Tôi nghĩ rằng Nhà nước cần xem xét để giúp các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, có đầu ra hẳn hoi. Những DN có năng lực sản xuất tốt về vàng trang sức như SJC, DOJI hoặc PNJ thì nên khuyến khích tạo điều kiện để họ có nguồn nguyên liệu chính thống phục vụ cho sản xuất cung ứng cho thị trường. Như vậy sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu, giá vàng 9999 với giá quốc tế. Và khi cho nhập khẩu nguyên liệu sản xuất vàng trang sức thì Nhà nước quản lý rất dễ bởi có đầu ra rất rõ rồi. Không cho sản xuất vàng miếng mà chỉ sản xuất vàng trang sức thôi thì rõ ràng sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu và giá vàng trang sức hiện nay với giá vàng quốc tế.
10:41 ngày 25/01/2024
Những biến động mạnh của giá vàng, nhiều thời điểm có thể khẳng định đó là "bong bóng" giá vàng, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, trong đó có vấn đề về yếu tố tâm lý. Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Việt Anh có nhận định và đánh giá như thế nào về vấn đề này, điều này gây ra những hệ lụy, rủi ro như thế nào đối với người dân, doanh nghiệp trong hoạt động giao dịch, kinh doanh vàng ở những thời điểm có nhiều biến động?
Ông Nguyễn Việt Anh, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TP Bank: Ở góc độ kinh doanh của tôi, tôi thấy không chỉ giá vàng mà giá các mặt hàng khác ở những thời điểm nhạy cảm đều có sự biến động. Tôi lấy ví dụ, năm ngoái, khi mà Nga và Ukraine xảy ra chiến sự thì giá niken trên thế giới đã tăng gấp đôi và sàn giao dịch phải đóng cửa. Cũng như vàng, nó cũng bị tác động bởi tâm lý, cũng như bị tác động bởi các yếu tố chính trị, các yếu tố vĩ mô và các yếu tố mang tính chất tác động đến lạm phát.
Chúng ta không thể loại trừ một thực tại rằng giá vàng trên thế giới là thứ mà chúng ta không thể can thiệp được, nhưng chúng ta phải hiểu rằng giá vàng trên thế giới đó cũng có những yếu tố bong bóng. Trong cùng một thời điểm, đôi khi chúng ta không thể lý giải yếu tố cơ bản nào khiến vì sao trong một ngày giá vàng "chạy" từ 100 đến 200 USD, sau đó lại quay trở lại. Đó là yếu tố bong bóng do tác động của tâm lý. Đây là một thực thể của thị trường tài chính.
Quay trở lại hoạt động kinh doanh, chúng tôi thường phải lưu tâm với khách hàng, người dân về những biến động mạnh như vậy thường có yếu tố mang tính chất thông tin, tác động chỉ là một chiều và cần phải chờ những thông tin điều chỉnh tiếp theo thì giá sẽ quay trở lại. Chúng ta không được vội vã khi ra những quyết định lúc giá đang "chạy" mạnh như vậy. Bởi vì mọi người thường hay chạy theo tâm lý FOMO, nghĩa là nếu mình không mua ở thời điểm này thì giá lại tăng cao nữa thì sao.
Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 1426 là một chính sách kịp thời. Vấn đề cần phải hiểu là hàm lượng vàng của một lượng vàng không thay đổi, giá trị vàng trên thế giới có tăng nhưng không tăng quá nhiều, vậy cơ sở nào mà chúng ta tăng lên đến 10% được. Ở đây là câu chuyện sự kỳ vọng quá lớn và có tâm lý "bầy đàn" về việc lo ngại giá vàng sẽ tăng cao trong thời kỳ tiếp theo. Khi công điện của Thủ tướng được ban hành, giá vàng đã tụt ngay lập tức.
Ở đây, tôi cũng muốn nói thêm về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như thị trường thanh khoản ít, tức là cầu nhiều cung ít, thì đây là yếu tố sẽ khiến giá tăng rất mạnh bởi chỉ có người mua mà không có người bán. Đối với người bán, họ cho đây là quyết định đúng vì họ thấy có lời. Đây là cơ chế để hình thành tất cả các loại bong bóng trong thị trường tài chính. Khi họ nhận ra mức tăng này là vô lý thì lúc đó người mua mới bán ra. Vì vậy, khi điều hành thị trường vàng, cần phải điều hành cả vấn đề tâm lý của người mua, từ đó chúng ta sẽ có hành xử như thế nào đối với giá vàng.
Trong giai đoạn vừa qua, thanh khoản, giao dịch của vàng SJC trên thị trường rất ít. Và khi có một lượng cầu tăng đột biến thì giá ngay lập tức sẽ có biến động mạnh. Thực tế đã cho chúng ta thấy việc vàng SJC tăng giá trong thời gian qua.
Tôi cũng muốn nói thêm một ý nữa. Khi Nghị định 24 ra đời, đúng là đã đem lại thành công rất lớn trong việc bình ổn thị trường vàng. Hơn 10 năm trở lại đây, chúng ta không thấy tình trạng định giá tài sản dùng vàng làm phương tiện thanh toán. Điều đó cũng cho thấy tỉ giá và lãi suất ổn định, đặc biệt là dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng lên rất cao, so với thời điểm trước khi Nghị định 24 ra đời. Chúng ta có thể thấy, trước năm 2012 (khi Nghị định 24 chưa ra đời), dự trữ ngoại hối của chúng ta thường xuyên bị thâm hụt. Điều này cho chúng ta thấy, việc thoát ly ra khỏi vàng trong các hoạt động kinh tế vĩ mô là thành công rất lớn của Nghị định 24. Còn thời điểm hiện nay, giá vàng thanh khoản thấp là do quy mô nền kinh tế hiện nay cao hơn, thu nhập của người dân từ năm 2012 trên đầu người là 2.300 USD, thì bây giờ là 4.280 USD, tức là tăng gần gấp đôi. Theo Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế, quy mô và thu nhập tính trên đầu người hơn 4.000 USD trở lên thì người dân bắt đầu có tính tích lũy, cất giữ tài sản. Ở vai trò kinh doanh, chúng tôi khuyến cáo tất cả những tài sản nào có tính thanh khoản và có sự biến động giá, đặc biệt là vàng thì luôn có sự biến động khá mạnh.
10:45 ngày 25/01/2024
Các chuyên gia đều đang đồng tình với quan điểm nên thành lập Sàn giao dịch vàng để quản lý thị trường vàng minh bạch, hiệu quả, theo đúng xu hướng của thế giới. Xin các chuyên gia có các phân tích sâu hơn về vấn đề này. Đâu là những ưu điểm của giải pháp này và để thực hiện hiệu quả, cần có những điều kiện gì?
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Vàng là một loại hàng hóa rất đặc biệt vì từ xưa tới nay, vàng có chức năng tích trữ, bảo toàn giá trị, chứ không chỉ đơn thuẩn sản xuất ra đồ trang sức. Chính vì thế, chúng ta nhìn thấy khi thế giới biến động, chiến tranh xảy ra hay kinh tế có chiều hướng suy giảm… thì giá vàng tăng vọt, vì người ta giữ vàng để bảo vệ giá trị đồng tiền. Người Việt Nam, tâm lý phòng ngừa rủi ro, phòng cho tương lai, tâm lý tích trữ rất cao, chính vì vậy, người dân có nhu cầu sở hữu, mua, bán vàng miếng, không phải chỉ để trang sức mà thực sự là tích trữ, đề phòng rủi ro, có tài sản phòng thân. Đó là yêu cầu chính đáng mà nếu chúng ta không cho phát triển thị trường vàng miếng, giữ độc quyền chỉ có vàng miếng SJC, cung ít, cầu nhiều thì đương nhiên giá tăng, dẫn đến tâm lý lo sợ lại lao đi mua, lại đẩy giá lên. Rõ ràng như vậy, thị trường vàng vật chất của chúng ta phải mở cửa, phải làm sao tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp và không nên độc quyền một sản phẩm để tạo ra cung lớn hơn, rộng rãi, bình đẳng, cạnh tranh. Khi càng cạnh tranh về cung thì càng có lợi cho người mua, giá sẽ ngang bằng, không còn chuyện giá phi lý. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ duy trì thị trường vàng vật chất, mua về cất tủ, két ở nhà, thì chỉ an toàn cho người có tiền, nhưng có sinh lợi hay không và đồng tiền đó có được đưa vào lưu thông không là vấn đề, thậm chí cần chi phí cho việc bảo trữ.
Khi chúng ta có sàn vàng, người dân sẽ thay đổi tâm lý. Về tiện lợi là không phải đi xa, không phải lo cất trữ vàng, không phải lo vàng có phải 9999 thật không,… vì chứng chỉ vàng sẽ bảo đảm giá trị đúng như thế và vàng sẽ nằm trên thị trường, hàng hóa được lưu thông trên thị trường. Như vậy, có thể chúng ta trong giai đoạn nhiều người cần vàng, nhưng vàng nằm trên thị trường, thì lưu thông mua bán được, không phải ngay lập tức mua vàng thế giới về đúc thành miếng rồi bán, vẫn có vàng để bán trên thị trường. Công cụ để điều hòa về mặt cung vàng rất rộng rãi, đặc biệt, khi giao dịch vàng trên tài khoản sẽ giúp cả các công cụ phái sinh, bán vàng theo hợp đồng bán cho tương lai, không phụ thuộc việc nhập vàng về mới có bù cho thị trường, khi đó sẽ bảo đảm phản ứng rất kịp thời.
Tôi cho rằng đó là yếu tố hết sức có lợi cho cả phía người dân yên tâm vẫn có vàng nếu muốn dự trữ và cả về phía thị trường, chúng ta điều hành về mặt nhà nước, quản lý thị trường, chúng ta bảo đảm quản lý được ngoại tệ.
Thêm nữa, khi đưa vàng vào giao dịch trên thị trường, khớp lệnh công khai minh bạch, bất kể người nào tham gia vào sẽ biết ngay thị trường có bao nhiêu người bán, mua… Thông tin minh bạch giúp người tham gia vào thị trường dễ đưa quyết định sáng suốt hơn, đặc biệt Nhà nước kiểm soát sẽ tốt.
Một điểm quan trọng nữa, rất cần liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới, nếu chúng ta có thị trường vàng giao dịch tài khoản trên sàn thì việc liên thông sẽ rất dễ, không nhất thiết phải nhập khẩu về mà có thể đặt lệnh mua bán là trao đổi được ngay vàng thế giới, việc đó tạo ra cân bằng giá với thị trường giao dịch thế giới.
Việc lập sàn giao dịch vàng tôi cho rằng là rất cần tính đến. Tất nhiên, vàng là hàng hóa đặc biệt, không phải hàng hóa thông thường nên cần tính tới phương thức quản lý như thế nào. Những năm trước đây có tình trạng nhiều cá nhân, tổ chức giao dịch sàn vàng quốc tế, rủi ro xảy ra rất nhiều. Giao dịch vàng cần nghiệp vụ rất sâu, không phải ai cũng tham gia được, nếu không cẩn trọng, có thể xảy ra khủng hoảng, thiệt hại cho dân. Tôi cho rằng, chúng ta cần tính tới mô hình sàn vàng như thế nào, có lẽ không phải mô hình như bán hàng hóa thông thường, ai mua cũng được mà phải đưa vào từng cấp độ, ví dụ, sàn sơ cấp, chỉ có một số nhà kinh doanh rất chuyên nghiệp mới giao dịch ở đó và thông qua liên thông quốc tế; còn sàn thứ cấp dành cho mua bán lẻ, có thể mua bán tự do trong nước, để chúng ta phòng ngừa rủi ro. Rồi khuôn khổ pháp lý như thế nào để kiểm soát, công nghệ thông tin để bảo đảm hàng hóa trên sàn… Đó là những vấn đề chúng ta cần quan tâm để tạo ra khung khổ pháp lý và điều kiện hoạt động để có thể phát triển lành mạnh cả thị trường vàng vật chất và thị trường vàng trên sàn.
TS. Trần Thọ Đạt: Như chúng ta vừa thảo luận, Nghị định 24 chủ yếu giải quyết việc quản lý thị trường vàng vật chất, quan trọng nhất là thị trường vàng miếng SJC, thị trường vàng miếng nói chung, trong bối cảnh mới, tôi cho rằng chúng ta phải thay đổi tư duy về cách quản lý thị trường vàng, tức là cơ quan điều hành phải nghiên cứu xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển làm sao cho thị trường vàng phải là bộ phận hữu cơ của thị trường tài chính, gắn bó chặt chẽ với thị trường hàng hóa và theo định hướng nền kinh tế của chúng ta phải là nền kinh tế thị trường và mang tính hội nhập, thị trường vàng cũng phải hội nhập và liên thông với thị trường thế giới, không thể tách rời mà phải làm sao cho thị trường vàng là bộ phận hữu cơ, bộ phận cấu thành rất quan trọng của thị trường tài chính, đóng góp vào nguồn lực và phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Và việc sửa đổi Nghị định 24 trong giai đoạn sắp tới, cần cố gắng đưa được nội dung này vào, khi đó phát triển thị trường vàng của chúng ta mới minh bạch, hiệu quả, an toàn và ổn định.
Theo tôi, trong thời gian vừa qua, ở nhiều quốc gia, cũng cần có sự quản lý giám sát của nhà nước với thị trường vàng, tuy nhiên cách thức quản lý giám sát khác nhau. Mỗi nước có điều kiện riêng, bối cảnh riêng để quản lý thị tường vàng phù hợp, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế hiện nay, có nhiều cách huy động nguồn lực của thị trường vàng, như cho phép huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ chứng nhận vàng và để bảo đảm tính nhất quán, chứng chỉ chứng nhận vàng cần do NHNN phát hành với các biện pháp bảo đảm an toàn và có thể thông qua các NHTM để thực hiện. Việc mua bán chứng chỉ chứng nhận vàng phải tuân thủ quy luật chặt chẽ vì vàng là một loại hàng hóa đặc biệt, là tài sản trú ẩn…
Nếu theo dõi sự biến động của giá vàng trong thời gian vừa qua, chúng ta thấy tính chất trú ẩn của vàng cao, chứ tính chất sinh lợi không cao lắm. Diễn biến giá vàng trong một năm qua cho thấy biến động của giá vàng chỉ khoảng 5-6%, thấp hơn nhiều so với mức lãi suất và thậm chí thấp hơn nhiều so với mức lãi suất trên thị trường Mỹ hiện nay. Tính trong 5 năm qua, giá vàng biến động trong khoảng 40-50%, chưa kể đồng USD mất giá. Cho nên việc người dân tích trữ vàng không chỉ đơn thuần là phương tiện đầu tư mà là phương tiện trú ẩn, người ta muốn giữ vàng để đề phòng bất trắc, rủi ro, do vậy một khối lượng vàng rất lớn đang "nằm chết" trong dân. Một số số liệu ước tính lượng vàng dự trữ trong dân hiện nay là 300 tấn, cũng có số liệu 400-500 tấn, đây là số liệu ước chừng nhưng là con số lớn cần huy động thành nguồn lực tài chính trong sự phát triển KTXH. Nhưng để huy động được nguồn lực này và xây dựng được thị trường vàng trong tương lai, NHNN cần xây dựng các điều kiện, tiêu chí cụ thể đối với thị trường vàng mà chúng ta đề xuất là Sở giao dịch vàng. Về mặt khuyến nghị, tôi cho rằng, thời gian tới, cần sớm tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước để cho phép Sở Giao dịch Hàng hóa được giao dịch mặt hàng vàng kỳ hạn thông qua các loại hợp đồng, như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn như các quốc gia tiên tiến trên thế giới nhưng đồng thời các thành viên tham gia phải đáp ứng được tiêu chuẩn chặt chẽ và được phép xuất nhập khẩu vàng căn cứ vào các điều kiện hợp đồng... do sở giao dịch đó ban hành.
Thứ hai, cần thành lập quỹ tín thác (ETF) vàng như công cụ tài chính quốc tế, và chứng chỉ quỹ này cũng có thể mua trên sở giao dịch để khuyến khích người dân gửi vàng, bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, đầu tư, thay vì nắm giữ vàng miếng. Nếu quỹ tín thác này có thể tham gia mua bán các sản phẩm phái sinh hiện đại giống các sàn giao dịch trên thế giới thì quỹ tín thác bằng vàng sẽ có vai trò như quỹ bình ổn, giảm bớt áp lực đối với cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, cơ quan quản lý và khi giá vàng xảy ra hiện tượng sút giá, góp phần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Ông Nguyễn Việt Anh: Trong chủ đề sàn vàng, ở góc độ của tôi có 2 nội dung. Thứ nhất là chênh lệch giá vàng SJC. Chúng ta đều thấy rằng so với giá vàng thế giới, ta đang ở mức rất cao. Cái này xuất phát từ khi tập trung thương hiệu quốc gia về SJC. Rõ ràng người dân có chỗ tin cậy rất lớn, toàn bộ vàng miếng chắc chắn quay đến SJC. Tôi cho rằng, nếu ngay cả sàn vàng chỉ kinh doanh vàng SJC mà không gắn với việc điều chỉnh nguồn cung thì cũng chưa giải quyết được việc chênh lệch giá. Rõ ràng, từ khi có Nghị định 24, giá vàng được kiểm soát, hoạt động mua bán vàng được kiểm soát nhưng cho tới thời điểm hiện nay, nhu cầu người dân đã lên cao, có lẽ chúng ta cũng nên hài hòa điều tiết lượng này, nếu chúng ta tiếp tục duy trì SJC là thương hiệu vàng quốc gia. Vì đã gắn với quốc gia, tôi tin rằng, ngay cả việc thị trường hóa các thương hiệu vàng khác thì thương hiệu quốc gia vẫn là thương hiệu tin cậy nhất. Cho nên, khi điều hành phần này, chúng tôi cho rằng cũng cần sự hài hòa để cân đối cung-cầu, nếu không sẽ không xử lý được vấn đề chênh lệch giá.
Thứ hai, hình thức giao dịch vàng, chúng tôi thường gọi là giao dịch qua quầy hay qua sàn giao dịch tập trung, tựu chung nằm ở chỗ, khách hàng vàng thực ra trên thế giới phân ra khác, rất ít nhu cầu cất trong kho hay gửi ở đâu đó. Người ta cần mua bán vàng thì sẽ lên các trung gian tài chính và từ đó lên các sàn giao dịch vàng. Ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng bất cứ người kinh doanh, người đầu tư hay người dân đều có 2 nhu cầu đó, nếu phân tách vấn đề này có lẽ sẽ giảm tải được nhiều. Có người muốn mua vàng về giữ, thừa kế, cho tặng, làm trang sức, dự phòng an toàn… gọi là thị trường vàng vật chất. Cũng có những người sợ không giữ cái này khi giá lên sẽ bị thiệt; đây là nhu cầu về đầu tư tài chính, chúng ta nên trả về cho thị trường tài chính giải quyết việc đó…
Hiện tại, tất cả cầu đó dồn hết về thị trường vàng vật chất, sẽ làm tăng lên nguồn cầu trong lúc thị trường biến động. Nếu chúng ta khơi thông được công cụ tài chính cho những người muốn mua bán để cân bằng về giá thì chúng ta giải tỏa được rất nhiều nhu cầu về vàng vật chất. Như GS. Cường nói, nếu chúng ta làm tốt việc đó thì chúng ta cũng không cần nhiều ngoại tệ để nhập nhiều vàng về dập ra vàng miếng phân tán ra cho người dân nữa. Những người mua bán về giá thì chỉ ra vào thị trường tài chính, có thể là qua một trung tâm tài chính hoặc một sàn là một giải pháp chúng ta thực thi trên đó.
Tôi tin rằng, phân tách ra như vậy sẽ giải quyết về mặt dài hạn căn cơ đối với thị trường vàng, bớt cầu về vàng vật chất, chúng ta không phải cân đối ngoại tệ xuất nhập quá nhiều khi chúng ta có nhu cầu…
Một điểm nữa, đã là thương hiệu quốc gia, tôi nhất trí với ý kiến GS. Đạt là chúng ta chứng chỉ hóa và lưu ký ở Nhà nước vì Nhà nước bảo hành cái đó khi chúng ta thành lập trung tâm giao dịch tập trung hay gọi là sàn… Chứng chỉ đó được quyền rút ra, nhưng thông thường các sàn thế giới khi rút ra sẽ cần trình tự và mất phí, khiến người đầu tư thông thường cũng không thật sự muốn rút ra cho tới khi cần.
11:05 ngày 25/01/2024
Từ sự phân tích, dự báo thị trường, các vị khách mời có những kiến nghị, đề xuất tổng thể gì đối với các cơ quan chức năng trong công tác quản lý, phát triển thị trường vàng, bào đảm cho thị trường này ngày càng minh bạch, an toàn, lành mạnh, hiệu quả và bền vững.
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Đây là thời điểm chúng ta cần nhiều giải pháp căn cơ, thay đổi mạnh dạn để thực hiện chỉ thị của Thủ tướng. Chúng ta nên cân nhắc mở rộng vấn đề bình đẳng hàng hóa vàng vật chất, cần thiết phải xem lại có nên duy trì thương hiệu vàng quốc gia hay không.
Nhà nước quản lý là đúng nhưng không có nghĩa là Nhà nước phải nắm trực tiếp sản phẩm đó. Thương hiệu vàng quốc gia đã đến lúc hoàn thành sứ mệnh của nó, chúng ta trả lại cho vàng là sản phẩm hàng hóa thông thường. Doanh nghiệp nào có đủ năng lực sẽ có sản phẩm của mình đưa ra. Nhưng Nhà nước phải quản lý.
Phương thức quản lý bây giờ phải khác đi, chúng ta phải dùng công cụ để điều tiết, tăng cường công cụ về thuế, về kiểm soát thông tin. Vàng không giống các loại hàng hóa khác, nó không bị mất đi mà chỉ từ vàng miếng sang vàng trang sức. Vì vậy quá trình quản lý, vận hành của mặt hàng này, theo tôi Nhà nước phải quản lý chặt.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý cũng cần phải thay đổi. Phải xem lại việc cấp quota, hạn ngạch cho phép xuất khẩu bao nhiêu, sử dụng công cụ thuế để điều tiết… Như vậy, doanh nghiệp nào thấy cần thiết, có hiệu quả thì mới nhập. Chúng ta từ bỏ phương thức quản lý hành chính.
Thứ hai, phải mở thêm các thị trường mới, giao dịch trên tài khoản, trên các công cụ tài chính, điều đó sẽ hạn chế được thị trường vật chất, giúp tiện lợi hơn, hiệu quả, an toàn hơn, không cần thiết phải mua vàng miếng cất ở nhà nữa. Từ đó sẽ thay thế dần được thị trường vàng vật chất, vàng miếng tích trữ. Đương nhiên vàng trang sức là nhu cầu về phát triển thì nên có những chính sách ưu đãi trong xuất nhập khẩu thuận lợi để khuyến khích phát triển.
Nếu giao dịch vàng miếng, vàng tích trữ trên tài khoản thì chúng ta có rất nhiều công cụ để kiểm soát. Sàn giao dịch vàng hãy là đầu mối các sàn giao dịch hàng hóa khác. Vàng vẫn là hàng hóa khá đặc biệt, chúng ta cần phải có cơ chế và phân cấp độ cho các sàn vàng, không chỉ mỗi Nhà nước mà các ngân hàng lớn, các cơ quan lưu ký có đủ tiềm lực đều có thể tham gia vào cơ quan lưu ký, tham gia vào thị trường thứ cấp để lưu thông quốc tế. Mở thị trường sơ cấp cho toàn dân có thể tham gia. Và đương nhiên chúng ta phải có một khuôn khổ pháp lý rất chặt chẽ nhưng lại rộng mở để phát triển thông thoáng, sử dụng các quy luật thị trường cho cả hai nhóm vàng vật chất lẫn vàng giao dịch trên tài khoản.
Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển đổi số, rất cần tích cực mở rộng quản lý trên các công cụ này trong tất cả các hoạt động kinh doanh vàng để mọi người dân biết được thực trạng hoạt động trên thị trường vàng đang như thế nào.
TS. Trần Thọ Đạt: Việc quản lý thị trường vàng, huy động vàng trong dân, quản lý theo Nghị định 24 như vừa qua hay quản lý theo cơ chế thị trường, phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế đều hướng tới mục tiêu chung là hoạt động của thị trường vàng cần lành mạnh, ổn định và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo được hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Hiện tại NHNN quản lý thị trường vàng khá chặt chẽ, hơi mang tính hành chính. Phương thức này phù hợp với bối cảnh năm 2012 khi thị trường vàng có nhiều bất ổn nên chúng ta phải có các giải pháp tình thế mang tính hành chính. Sự chênh lệch giữa giá vàng SJC với giá vàng thế giới trong hơn 2 năm qua đến nay vẫn chưa có sự thay đổi. Tôi cho rằng sự e ngại, do dự của nhà quản lý có vấn đề của nó, có căn nguyên là e ngại nếu chúng ta mở cửa thị trường vàng này thì có thể hiện tượng vàng hóa, bất ổn kinh tế vĩ mô sẽ quay lại. Sự e ngại này có thể hiểu được. Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua, nhờ việc triển khai khá đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp hạn chế tình trạng "đô la hóa", gần như chấm dứt tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế thì sự e ngại đó cơ bản là không còn. Đã đến lúc chúng ta thấy rằng Nghị định 24 hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và cần có sự thay đổi.
Sự thay đổi đó thứ nhất là NHNN chỉ nên thực hiện quản lý và hoạch định hành chính, chính sách, điều tiết, dự trữ ngoại hối bằng vàng theo các pháp lệnh hiện hành, ví dụ như pháp lệnh ngoại hối, Luật NHNN, Luật Các tổ chức tín dụng, mà không tham gia sản xuất kinh doanh và điều tiết thị trường vàng và các biện pháp hành chính, không trực tiếp can dự vào quá trình kinh doanh vàng, trả lại việc kinh doanh vàng cho thị trường.
Tiếp đến, thị trường vàng Việt Nam đã đến lúc phải liên thông với thị trường thế giới, phải loại bỏ chênh lệch giá, đặc biệt là chênh lệch giá vàng SJC như hiện nay bằng các giải pháp thị trường, sản xuất vàng miếng phải trao cho thị trường. Đồng thời, chính sách quản lý thị trường vàng tiến tới tự do hóa xuất nhập khẩu thông qua quản lý thị trường hàng hóa, Nhà nước chỉ điều tiết về chính sách như các nước khác trên thế giới.
Thứ ba là phải sớm chuyển đổi thị trường vàng vật chất sang thị trường vàng kỳ hạn, giao dịch thông qua các hợp đồng.
Điều cuối cùng là quản lý thị trường vàng phải có giải pháp thích hợp để huy động được khối lượng vàng lớn trong dân hiện nay. Chúng ta đã ước tính có khoảng 400 tấn vàng vẫn nằm trong két của người dân.
Tôi có 2 đề xuất cụ thể. Thứ nhất, thị trường vàng trang sức của chúng ta có tiềm năng phát triển. Người Việt Nam rất khéo tay, các doanh nghiệp kỹ nghệ vàng rất có kinh nghiệm, nhưng thời gian vừa qua gặp rất nhiều khó khăn, do nhiều cơ chế như đánh thuế vàng nhập khẩu, ở các nước đều là 0%, chúng ta vừa rồi tăng lên 1%. Tôi nghĩ rằng nên trở lại mức thuế suất 0% thì thị trường vàng trang sức của chúng ta mới có sự cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy thị trường vàng trang sức của chúng ta chỉ xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD, trong khi các nước khác trong khu vực cỡ 6-8-10 tỷ USD.
Nếu chúng ta thông thoáng trong quy định xuất nhập khẩu sẽ là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp vàng phát huy thế mạnh cạnh tranh để xuất khẩu vàng, tạo công ăn việc làm cho ngành nghề sản xuất vốn là thế mạnh của Việt Nam.
Thứ hai, về điều kiện kinh doanh vàng trang sức, đã gọi là vàng trang sức là loại hàng hóa bình thường, vì vậy việc kinh doanh mặt hàng này nên trở thành điều kiện bình thường, không cần có điều kiện.
Qua tọa đàm, chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn những ý kiến phân tích, kiến nghị, khuyến nghị, đề xuất hết sức sức sâu sát, có tính thực tiễn và khả thi cao của các vị đại biểu là khách mời của Tọa đàm... về vấn đề phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững. Những giải pháp được các đại biểu đề cập sẽ là những đóng góp hết sức thiết thực đối với Chính phủ, các cơ quan chức năng trong hoàn thiện các kịch bản, chỉ đạo các nhiệm vụ, giải pháp trong quả lý, phát triển thị trường vàng thời gian tới.
Chúng ta tin tưởng và kỳ vọng rằng, với sự chỉ đạo quyết liệt, sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chủ động vào cuộc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao của các cơ quan chức năng, nhất là những nhiệm vụ cấp bách được Thủ tướng kịp thời chỉ đạo tại Công điện 1426, những bất cập, tồn tại, hạn chế trong hoạt động của thị trường vàng sẽ từng bước được khắc phục, hóa giải, hoạt động của thị trường vàng sẽ tiếp tục phát triển theo hướng ngày càng minh bạch, lành mạnh, hiệu quả và bền vững, tích cực đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong bối cảnh đất nước ta đang có sự phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19.
Được biết, trong thời gian qua, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đã phối hợp với Hội đồng vàng thế giới có những chuyến thăm, làm việc và học hỏi kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của các nền kinh tế lớn trong khu vực và thế giới. Xin ông Nguyễn Thế Hùng, chia sẻ một số kinh nghiệm về mô hình, cách thức quản lý thị trường vàng đang được áp dụng phổ biến và hiệu quả trên thế giới?
Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam: Theo thông lệ quốc tế, người ta coi vàng là một loại hàng hóa. Và quy định có hai loại vàng là vàng vật chất và vàng phi vật chất. Vàng vật chất bao gồm vàng thỏi, vàng miếng, đồng tiền vàng, trang sức. Còn vàng phi vật chất bao gồm vàng tài khoản và các chứng chỉ về vàng được giao dịch rất thông dụng trên thị trường. Trong Nghị định 24/2012/NĐ-CP chỉ đề cập đến vàng vật chất, đặc biệt vàng miếng được chọn là thương hiệu quốc gia và được Nhà nước độc quyền sản xuất và kinh doanh.
Trên thế giới, theo khảo sát của chúng tôi và rất nhiều hội thảo, đồng thời cũng đã có cuộc làm việc với Hội đồng Vàng Thế giới đều khẳng định rất rõ là các nước trên thế giới, kể cả các nền kinh tế lớn, các ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng bởi họ quan niệm vàng là một loại hàng hóa thông thường. Tại các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan thì có Bộ Thương mại hoặc Bộ Công thương, Bộ Kinh tế quản lý. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về ngoại hối, điều tiết các dòng tiền ngoại tệ. Và các ngân hàng Trung ương ở các nước chỉ có vai trò dự trữ quốc gia, điều phối vàng như là một tài sản để dự trữ quốc gia. Đây là một công cụ để bảo đảm an ninh tiền tệ. Như vậy, ngân hàng Trung ương ở các nước không trực tiếp quản lý vàng.
Chính vì thế, vai trò như là ngân hàng Trung ương trong Nghị định 24 phát huy trong thời điểm mà thị trường vàng có những lộn xộn. Đến bây giờ, chúng ta vẫn duy trì việc độc quyền SJC sẽ dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về giá vàng, mà thực tế đã chứng minh như vậy. Ở Việt Nam, người dân coi vàng như là một phương tiện để tích trữ và phòng ngừa lạm phát, rủi ro. Nhưng chúng ta cũng thấy, đến bây giờ, giá trị đồng tiền Việt Nam rất ổn định; tỉ giá cũng rất ổn định. Chính vì thế người dân không dùng vàng để làm phương tiện thanh toán và không có khái niệm "vàng hóa". Bây giờ trên thị trường, không ai sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán nữa. Vì thế, nếu chúng ta không khuyến khích người dân tích trữ vàng miếng nữa, theo chủ trương của Nhà nước là tập trung vào sản xuất trang sức để tăng giá trị thặng dư, tập trung vốn vào sản xuất và xuất nhập khẩu, thì phải xem xét lại cách thức quản lý thị trường vàng hiện nay. Nếu chúng ta quan niệm giống như các nước trên thế giới, vàng là một loại hàng hóa thì Ngân hàng Nhà nước không quản lý trực tiếp thị trường vàng nữa.
Trước những diễn biến phức tạp của thị trường vàng trong nước vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Công điện 1426 và ngay tức khắc, công điện này đã phát huy tác dụng đối với thị trường. Là chuyên gia kinh tế, ông Trần Thọ Đạt có nhận định, đánh giá như thế nào về tính kịp thời của công điện, cũng như ý nghĩa của các giải pháp được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trong công điện trước những biến động mạnh, sự "nhảy múa" của giá vàng như đã diễn ra trong thời gian vừa qua?
Chuyên gia kinh tế Trần Thọ Đạt: Tôi cho rằng Công điện 1426 của Thủ tướng Chính phủ ra đời vào ngày 27/12/2023 rất đúng lúc, nhất là trong lúc thị trường vàng trong nước so với thị trường vàng quốc tế có sự biến động rất mạnh về giá. Tôi nhớ buổi sáng hôm đó, giá vàng SJC vươn tới mức đỉnh cao kỷ lục so với từ trước đến nay, giá bán ra khoảng 80 triệu đồng/lượng. Trong công điện này đã chỉ rõ, trong thời gian vừa qua, thị trường vàng thế giới và trong nước diễn biến khá phức tạp. Giá vàng trong nước thì biến động mạnh, tăng nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của thị trường vàng thế giới và như vậy sẽ tiềm ẩn, tác động tiêu cực đến an toàn thị trường tài chính, tiền tệ, cũng như tâm lý xã hội. Công điện này đã đưa ra một số biện pháp, chỉ đạo mang tính chất rất căn cơ và rất kịp thời để ổn định và phát triển thị trường vàng theo phương châm thị trường vàng phải an toàn, lành mạnh, phát triển hiệu quả và bền vững. Do vậy, tôi thấy tọa đàm này có chủ đề "Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững" là bám sát và kịp thời với tinh thần chỉ đạo nội dung công điện của Thủ tướng. Công điện này có nhiều nội dung liên quan đến giải pháp cho giá vàng.
Thứ nhất là, khẩn trương thực hiện ngay cách giải pháp để bình ổn thị trường vàng.
Thứ hai, công điện khẳng định là dứt khoát không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế quay lại, không để tác động tiêu cực của giá vàng đến các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản như tỉ giá, lãi suất, ngoại hối và sự an toàn của tiền tài chính quốc gia.
Đồng thời công điện cũng khẳng định cần khẩn trương có các giải pháp hiệu quả để quản lý, điều hành giá vàng miếng trong nước theo nguyên tắc thị trường, không để tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và trên thế giới ở mức cao như trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có trọng tâm, trọng điểm đối với thị trường vàng, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, ở các cửa hàng và đại lý có tuân thủ các quy định pháp lý về giá vàng hay không.
Công điện cũng có một nội dung rất quan trọng là cần khẩn trương xem xét lại Nghị định 24 ra đời năm 2012 so với bối cảnh bây giờ đã rất khác nhiều, để có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của thị trường tài chính tiền tệ cũng như diễn biến của giá vàng thế giới.
Ở đây, tôi xin nêu ra 3 vấn đề liên quan đến nội dung của công điện. Thứ nhất là công điện yêu cầu không để tình trạng chênh lệch giá vàng miếng giữa thị trường trong nước và giá vàng quốc tế ở mức cao như trong thời gian vừa qua. Đây chính là chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC với giá vàng quốc tế. Theo số liệu thống kê và quan sát của chúng tôi, trong, trước và sau Nghị định 24, ở Việt Nam có hai loại chênh lệch giá vàng. Trước hết là chênh lệch giữa giá vàng nguyên liệu 24K (tức là vàng 9999) với giá vàng thế giới và chênh lệch giữa giá vàng SJC so với giá vàng 9999. Số liệu thống kê cũng cho thấy, giá vàng nguyên liệu 24K của chúng ta so với giá vàng thế giới không có chênh lệch nhiều. Sự không chênh lệch này diễn ra trong cả 12 năm vừa qua (khi Nghị định 24 ban hành đến nay). Ví dụ, giá vàng thế giới đang ở khoảng 2.030 usd/ounce, không kể thuế và phí thì tương đương mức giá vàng ở trong nước vào khoảng 62 triệu đồng/lượng. Giá vàng 24K của Việt Nam, tính cả thuế và phí nữa, sẽ ở mức 64-65 triệu đồng/lượng. Tôi nghĩ đây là một mức giá hợp lý. Vấn đề đáng nói là công điện của Thủ tướng Chính phủ cũng lưu ý việc chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC là quá cao; và như các nhà kinh tế cũng như báo chí thường nói, giá vàng SJC hiện nay "một mình một chợ". Lúc giá vàng SJC lên đỉnh điểm 80 triệu thì mức chênh lệch khoảng 20 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế giới. Đây là một điều rất bất hợp lý.
Ngoài ra, tôi thấy tính kịp thời của Công điện 1426 còn thể hiện ở chỗ ngay sau khi công điện được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, lập tức giá vàng SJC lúc đó giảm mạnh trong vòng một tiếng đồng hồ từ 80 triệu đồng/lượng xuống còn 73 triệu đồng/lượng, tức là giảm 8%. Như vậy, công điện mới chỉ thể hiện ở phần chỉ đạo thôi đã tác động kịp thời, giảm ngay chênh lệch đó.
Hai vấn đề cũng rất quan trọng trong công điện 1426 là dứt khoát không để quay lại thị trường vàng hóa và không để giá vàng biến động, tác động tiêu cực đến an toàn thị trường tài chính nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Tôi nghĩ rằng đây là một sự nhắc nhở đối với cơ quan điều hành chính sách quản lý tiền tệ và thị trường vàng là không được chủ quan với 2 nội dung này.
Cũng cần khẳng định thêm là Nghị định 24 cũng đã có những thành công rất lớn trong việc ngăn chặn cũng như chấm dứt tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế Việt Nam 12 năm qua. Còn tác động của giá vàng đối với sự an toàn thị trường tài chính, đặc biệt là biến động đến các biến số kinh tế vĩ mô thì theo số liệu của chúng tôi theo dõi trong 12 năm qua, mức độ tương quan biến động của giá vàng so với các biến số kinh tế vĩ mô khác, cụ thể là biến động của tỉ giá, biến động của lạm phát, là rất thấp. Mức độ tương quan chỉ ở mức 0,1 và 0,2, thậm chí có lúc là tương quan âm (-). Tôi cho rằng đây là kết quả rất đáng ghi nhận của Nghị định 24 trong việc góp phần ổn định an toàn của nền tài chính quốc gia, ổn định các biến số của nền kinh tế vĩ mô. Vấn đề cần quan tâm ở đây là sự chênh lệch giữa vàng miếng SJC với giá vàng quốc tế hiện nay đang ở mức rất cao thì công điện cũng chỉ rõ nguyên tắc là phải điều hành theo cơ chế thị trường, phải khơi thông cung - cầu. Và đặc biệt, thị trường vàng trong nước phải liên thông, bảo đảm phù hợp với biến động của giá vàng thế giới.
Như vậy, định hướng về giải pháp ở đây rất rõ ràng. Vấn đề là cách làm hiện nay như thế nào. Tôi cho rằng, về điều hành theo cơ chế thị trường, tức là chúng ta cần phải làm cho cung - cầu gần nhau theo hướng không chênh lệch giữa giá vàng thế giới so với giá vàng trong nước. Theo tôi, nếu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phải độc quyền vàng miếng SJC thì cần gia tăng Quỹ dự trữ vàng và sẵn sàng tăng cung vàng miếng một khi giá vàng SJC cao hơn bất thường so với giá vàng thế giới để bình ổn giá.
Sự chênh lệnh giá vàng quá lớn giữa trong nước và nước ngoài thời gian gần đây đã làm hạn chế sự hội nhập và liên thông giữa thị trường vàng Việt Nam và thế giới. Lợi dụng tình hình, đã xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các hành vi buôn lậu, thao túng, đầu cơ vàng để trục lợi; dẫn đến thị trường vàng đôi lúc bị méo mó, phi thị trường... Ông có cho rằng đây là những vấn đề nghiêm trọng và cần phải tập trung xử lý rốt ráo, dứt điểm bằng những giải pháp khả thi, đồng bộ để không để tái diễn tình trạng này trong thơi gian tới?
Ông Nguyễn Thế Hùng: Đúng như vậy, việc chênh lệch giá vàng quốc tế với giá vàng trong nước quá lớn như vậy gây ra hậu quả không tốt cho thị trường. Thực tế người dân không được hưởng lợi khi phải mua với giá vàng trong nước rất cao và việc để chênh lệch như thế trong khi không cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu chính thống thì rõ ràng tạo điều kiện cho việc buôn lậu, không kiểm soát được.
Thứ nhất, ngoại tệ để nhập lậu vàng chúng ta không kiểm soát được, thứ hai là bản thân các doanh nghiệp khi đang thực hiện việc sản xuất kinh doanh vàng trang sức có nhu cầu về vàng nguyên liệu thì cũng không biết mua ở đâu cả và mua trôi nổi trên thị trường sẽ rất là rủi ro về mặt pháp luật. Đây cũng là một cản trở cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng trang sức. Chính vì vậy tôi nghĩ rằng để làm cho giá vàng thu hẹp lại khoảng cách và hội nhập với giá quốc tế thì đây là một biện pháp rất cần thiết phải thực hiện.
Một thực tế khác là khi giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì chúng ta xuất khẩu cũng không được, bởi vì từ năm 2012 đến nay sau khi có Nghị định 24, việc xuất khẩu vàng dưới 90% mới không phải chịu thuế, còn trên 90% phải chịu thuế. Vừa rồi có thay đổi từ 95% trở lên mới chịu thuế xuất khẩu là 1%. Nhưng chúng ta thấy là mức thuế 1% giá xuất khẩu vàng trang sức thì chi phí rất lớn với các doanh nghiệp và cũng không thể xuất được, chưa nói tới việc giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì càng không thể xuất được rồi.
Theo tổng kết của Hội đồng Vàng Thế giới thì nhu cầu thực tế có những thời gian Việt Nam nhập cao nhất 60 tấn vàng, còn nhu cầu hiện nay (không tính để sản xuất vàng miếng) ít nhất cũng cần 20 tấn vàng nhập khẩu mỗi năm. Nhưng từ năm 2012 đến nay, chúng ta không nhập khẩu một lượng vàng nào cả theo con đường chính thống. Chính vì thế nên không thể cản được việc buôn lậu và hậu quả của nó là chảy máu ngoại tệ. Nhà nước không kiểm soát được nhưng đồng thời các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng trang sức cũng gặp rủi ro trong việc mua bán vàng nguyên liệu trôi nổi trên thị trường.
Thực tế vừa rồi, rất nhiều vụ án buôn lậu vàng lớn đã bị phát hiện, nhưng đó chỉ là những vụ lớn thôi, còn rõ ràng hiện nay do Việt Nam không khai thác được vàng nên câu hỏi đặt ra là số vàng lưu thông trên thị trường hiện nay và số nguyên liệu đó nguồn từ đâu? Còn nếu tính đến nguồn từ các doanh nghiệp thực hiện phân kim để có vàng nguyên liệu mà sản xuất ra thì chiếm tỉ lệ rất thấp (chỉ khoảng 3-4 tấn mỗi năm).
Thứ hai, chúng ta đang làm một quy trình ngược, tức là mua vàng tiêu chuẩn quốc tế 9999 về sản xuất ở Việt Nam để nội địa hóa bằng vàng SJC và nếu mình có nhu cầu xuất khẩu vàng nguyên liệu ra nước ngoài thì vàng SJC đó lại không được công nhận là vàng tiêu chuẩn quốc tế mà phải coi như vàng nguyên liệu. Một doanh nghiệp có vàng trang sức xuất khẩu mà chuyển đổi để xuất khẩu đi thì phải chịu chi phí rất lớn, trung bình từ 12-15 USD cho 1 ounce. Rõ ràng chúng ta nhập vàng về để sản xuất ra vàng miếng là không nên và không nên khuyến khích việc tiêu thụ vàng miếng. Còn nhu cầu của dân, ở các nước ví dụ ngay tại các nước khác chung quanh chúng ta như Lào, người dân không có khái niệm vàng miếng, người ta chỉ mua vàng trang sức 9999 hoặc 999 làm trang sức hay của hồi môn thôi và mặc dù các hãng vàng bán vàng miếng ở đó nhưng người ta vẫn quan niệm giống vàng trang sức và không mua để tích trữ như ở Việt Nam.
Chính vì thế, tôi thấy chủ trương của Ngân hàng Nhà nước không khuyến khích người dân mua bán vàng miếng, tích trữ vàng miếng là rất đúng đắn và chúng ta cần phải bám sát theo chủ trương này để có biện pháp. Tức là khi nhập khẩu vàng không phải để phục vụ sản xuất vàng miếng và khi người dân không quan trọng việc mua vàng 9999 hay vàng miếng, vàng trang sức nữa thì rõ ràng sẽ không có chênh lệch.
Còn một thực tế nữa là hiện nay giá vàng trang sức 9999 trên thị trường vẫn chênh lệch so với giá thế giới khoảng 2,5-3 triệu đồng bởi vì không có nguồn cung, mà trong lịch sử chưa có việc này. Tôi nghĩ rằng Nhà nước cần xem xét để giúp các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, có đầu ra hẳn hoi. Những DN có năng lực sản xuất tốt về vàng trang sức như SJC, DOJI hoặc PNJ thì nên khuyến khích tạo điều kiện để họ có nguồn nguyên liệu chính thống phục vụ cho sản xuất cung ứng cho thị trường. Như vậy sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu, giá vàng 9999 với giá quốc tế. Và khi cho nhập khẩu nguyên liệu sản xuất vàng trang sức thì Nhà nước quản lý rất dễ bởi có đầu ra rất rõ rồi. Không cho sản xuất vàng miếng mà chỉ sản xuất vàng trang sức thôi thì rõ ràng sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu và giá vàng trang sức hiện nay với giá vàng quốc tế.
Những biến động mạnh của giá vàng, nhiều thời điểm có thể khẳng định đó là "bong bóng" giá vàng, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, trong đó có vấn đề về yếu tố tâm lý. Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Việt Anh có nhận định và đánh giá như thế nào về vấn đề này, điều này gây ra những hệ lụy, rủi ro như thế nào đối với người dân, doanh nghiệp trong hoạt động giao dịch, kinh doanh vàng ở những thời điểm có nhiều biến động?
Ông Nguyễn Việt Anh, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TP Bank: Ở góc độ kinh doanh của tôi, tôi thấy không chỉ giá vàng mà giá các mặt hàng khác ở những thời điểm nhạy cảm đều có sự biến động. Tôi lấy ví dụ, năm ngoái, khi mà Nga và Ukraine xảy ra chiến sự thì giá niken trên thế giới đã tăng gấp đôi và sàn giao dịch phải đóng cửa. Cũng như vàng, nó cũng bị tác động bởi tâm lý, cũng như bị tác động bởi các yếu tố chính trị, các yếu tố vĩ mô và các yếu tố mang tính chất tác động đến lạm phát.
Chúng ta không thể loại trừ một thực tại rằng giá vàng trên thế giới là thứ mà chúng ta không thể can thiệp được, nhưng chúng ta phải hiểu rằng giá vàng trên thế giới đó cũng có những yếu tố bong bóng. Trong cùng một thời điểm, đôi khi chúng ta không thể lý giải yếu tố cơ bản nào khiến vì sao trong một ngày giá vàng "chạy" từ 100 đến 200 USD, sau đó lại quay trở lại. Đó là yếu tố bong bóng do tác động của tâm lý. Đây là một thực thể của thị trường tài chính.
Quay trở lại hoạt động kinh doanh, chúng tôi thường phải lưu tâm với khách hàng, người dân về những biến động mạnh như vậy thường có yếu tố mang tính chất thông tin, tác động chỉ là một chiều và cần phải chờ những thông tin điều chỉnh tiếp theo thì giá sẽ quay trở lại. Chúng ta không được vội vã khi ra những quyết định lúc giá đang "chạy" mạnh như vậy. Bởi vì mọi người thường hay chạy theo tâm lý FOMO, nghĩa là nếu mình không mua ở thời điểm này thì giá lại tăng cao nữa thì sao.
Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 1426 là một chính sách kịp thời. Vấn đề cần phải hiểu là hàm lượng vàng của một lượng vàng không thay đổi, giá trị vàng trên thế giới có tăng nhưng không tăng quá nhiều, vậy cơ sở nào mà chúng ta tăng lên đến 10% được. Ở đây là câu chuyện sự kỳ vọng quá lớn và có tâm lý "bầy đàn" về việc lo ngại giá vàng sẽ tăng cao trong thời kỳ tiếp theo. Khi công điện của Thủ tướng được ban hành, giá vàng đã tụt ngay lập tức.
Ở đây, tôi cũng muốn nói thêm về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như thị trường thanh khoản ít, tức là cầu nhiều cung ít, thì đây là yếu tố sẽ khiến giá tăng rất mạnh bởi chỉ có người mua mà không có người bán. Đối với người bán, họ cho đây là quyết định đúng vì họ thấy có lời. Đây là cơ chế để hình thành tất cả các loại bong bóng trong thị trường tài chính. Khi họ nhận ra mức tăng này là vô lý thì lúc đó người mua mới bán ra. Vì vậy, khi điều hành thị trường vàng, cần phải điều hành cả vấn đề tâm lý của người mua, từ đó chúng ta sẽ có hành xử như thế nào đối với giá vàng.
Trong giai đoạn vừa qua, thanh khoản, giao dịch của vàng SJC trên thị trường rất ít. Và khi có một lượng cầu tăng đột biến thì giá ngay lập tức sẽ có biến động mạnh. Thực tế đã cho chúng ta thấy việc vàng SJC tăng giá trong thời gian qua.
Tôi cũng muốn nói thêm một ý nữa. Khi Nghị định 24 ra đời, đúng là đã đem lại thành công rất lớn trong việc bình ổn thị trường vàng. Hơn 10 năm trở lại đây, chúng ta không thấy tình trạng định giá tài sản dùng vàng làm phương tiện thanh toán. Điều đó cũng cho thấy tỉ giá và lãi suất ổn định, đặc biệt là dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng lên rất cao, so với thời điểm trước khi Nghị định 24 ra đời. Chúng ta có thể thấy, trước năm 2012 (khi Nghị định 24 chưa ra đời), dự trữ ngoại hối của chúng ta thường xuyên bị thâm hụt. Điều này cho chúng ta thấy, việc thoát ly ra khỏi vàng trong các hoạt động kinh tế vĩ mô là thành công rất lớn của Nghị định 24. Còn thời điểm hiện nay, giá vàng thanh khoản thấp là do quy mô nền kinh tế hiện nay cao hơn, thu nhập của người dân từ năm 2012 trên đầu người là 2.300 USD, thì bây giờ là 4.280 USD, tức là tăng gần gấp đôi. Theo Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế, quy mô và thu nhập tính trên đầu người hơn 4.000 USD trở lên thì người dân bắt đầu có tính tích lũy, cất giữ tài sản. Ở vai trò kinh doanh, chúng tôi khuyến cáo tất cả những tài sản nào có tính thanh khoản và có sự biến động giá, đặc biệt là vàng thì luôn có sự biến động khá mạnh.
Các chuyên gia đều đang đồng tình với quan điểm nên thành lập Sàn giao dịch vàng để quản lý thị trường vàng minh bạch, hiệu quả, theo đúng xu hướng của thế giới. Xin các chuyên gia có các phân tích sâu hơn về vấn đề này. Đâu là những ưu điểm của giải pháp này và để thực hiện hiệu quả, cần có những điều kiện gì?
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Vàng là một loại hàng hóa rất đặc biệt vì từ xưa tới nay, vàng có chức năng tích trữ, bảo toàn giá trị, chứ không chỉ đơn thuẩn sản xuất ra đồ trang sức. Chính vì thế, chúng ta nhìn thấy khi thế giới biến động, chiến tranh xảy ra hay kinh tế có chiều hướng suy giảm… thì giá vàng tăng vọt, vì người ta giữ vàng để bảo vệ giá trị đồng tiền. Người Việt Nam, tâm lý phòng ngừa rủi ro, phòng cho tương lai, tâm lý tích trữ rất cao, chính vì vậy, người dân có nhu cầu sở hữu, mua, bán vàng miếng, không phải chỉ để trang sức mà thực sự là tích trữ, đề phòng rủi ro, có tài sản phòng thân. Đó là yêu cầu chính đáng mà nếu chúng ta không cho phát triển thị trường vàng miếng, giữ độc quyền chỉ có vàng miếng SJC, cung ít, cầu nhiều thì đương nhiên giá tăng, dẫn đến tâm lý lo sợ lại lao đi mua, lại đẩy giá lên. Rõ ràng như vậy, thị trường vàng vật chất của chúng ta phải mở cửa, phải làm sao tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp và không nên độc quyền một sản phẩm để tạo ra cung lớn hơn, rộng rãi, bình đẳng, cạnh tranh. Khi càng cạnh tranh về cung thì càng có lợi cho người mua, giá sẽ ngang bằng, không còn chuyện giá phi lý. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ duy trì thị trường vàng vật chất, mua về cất tủ, két ở nhà, thì chỉ an toàn cho người có tiền, nhưng có sinh lợi hay không và đồng tiền đó có được đưa vào lưu thông không là vấn đề, thậm chí cần chi phí cho việc bảo trữ.
Khi chúng ta có sàn vàng, người dân sẽ thay đổi tâm lý. Về tiện lợi là không phải đi xa, không phải lo cất trữ vàng, không phải lo vàng có phải 9999 thật không,… vì chứng chỉ vàng sẽ bảo đảm giá trị đúng như thế và vàng sẽ nằm trên thị trường, hàng hóa được lưu thông trên thị trường. Như vậy, có thể chúng ta trong giai đoạn nhiều người cần vàng, nhưng vàng nằm trên thị trường, thì lưu thông mua bán được, không phải ngay lập tức mua vàng thế giới về đúc thành miếng rồi bán, vẫn có vàng để bán trên thị trường. Công cụ để điều hòa về mặt cung vàng rất rộng rãi, đặc biệt, khi giao dịch vàng trên tài khoản sẽ giúp cả các công cụ phái sinh, bán vàng theo hợp đồng bán cho tương lai, không phụ thuộc việc nhập vàng về mới có bù cho thị trường, khi đó sẽ bảo đảm phản ứng rất kịp thời.
Tôi cho rằng đó là yếu tố hết sức có lợi cho cả phía người dân yên tâm vẫn có vàng nếu muốn dự trữ và cả về phía thị trường, chúng ta điều hành về mặt nhà nước, quản lý thị trường, chúng ta bảo đảm quản lý được ngoại tệ.
Thêm nữa, khi đưa vàng vào giao dịch trên thị trường, khớp lệnh công khai minh bạch, bất kể người nào tham gia vào sẽ biết ngay thị trường có bao nhiêu người bán, mua… Thông tin minh bạch giúp người tham gia vào thị trường dễ đưa quyết định sáng suốt hơn, đặc biệt Nhà nước kiểm soát sẽ tốt.
Một điểm quan trọng nữa, rất cần liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới, nếu chúng ta có thị trường vàng giao dịch tài khoản trên sàn thì việc liên thông sẽ rất dễ, không nhất thiết phải nhập khẩu về mà có thể đặt lệnh mua bán là trao đổi được ngay vàng thế giới, việc đó tạo ra cân bằng giá với thị trường giao dịch thế giới.
Việc lập sàn giao dịch vàng tôi cho rằng là rất cần tính đến. Tất nhiên, vàng là hàng hóa đặc biệt, không phải hàng hóa thông thường nên cần tính tới phương thức quản lý như thế nào. Những năm trước đây có tình trạng nhiều cá nhân, tổ chức giao dịch sàn vàng quốc tế, rủi ro xảy ra rất nhiều. Giao dịch vàng cần nghiệp vụ rất sâu, không phải ai cũng tham gia được, nếu không cẩn trọng, có thể xảy ra khủng hoảng, thiệt hại cho dân. Tôi cho rằng, chúng ta cần tính tới mô hình sàn vàng như thế nào, có lẽ không phải mô hình như bán hàng hóa thông thường, ai mua cũng được mà phải đưa vào từng cấp độ, ví dụ, sàn sơ cấp, chỉ có một số nhà kinh doanh rất chuyên nghiệp mới giao dịch ở đó và thông qua liên thông quốc tế; còn sàn thứ cấp dành cho mua bán lẻ, có thể mua bán tự do trong nước, để chúng ta phòng ngừa rủi ro. Rồi khuôn khổ pháp lý như thế nào để kiểm soát, công nghệ thông tin để bảo đảm hàng hóa trên sàn… Đó là những vấn đề chúng ta cần quan tâm để tạo ra khung khổ pháp lý và điều kiện hoạt động để có thể phát triển lành mạnh cả thị trường vàng vật chất và thị trường vàng trên sàn.
TS. Trần Thọ Đạt: Như chúng ta vừa thảo luận, Nghị định 24 chủ yếu giải quyết việc quản lý thị trường vàng vật chất, quan trọng nhất là thị trường vàng miếng SJC, thị trường vàng miếng nói chung, trong bối cảnh mới, tôi cho rằng chúng ta phải thay đổi tư duy về cách quản lý thị trường vàng, tức là cơ quan điều hành phải nghiên cứu xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển làm sao cho thị trường vàng phải là bộ phận hữu cơ của thị trường tài chính, gắn bó chặt chẽ với thị trường hàng hóa và theo định hướng nền kinh tế của chúng ta phải là nền kinh tế thị trường và mang tính hội nhập, thị trường vàng cũng phải hội nhập và liên thông với thị trường thế giới, không thể tách rời mà phải làm sao cho thị trường vàng là bộ phận hữu cơ, bộ phận cấu thành rất quan trọng của thị trường tài chính, đóng góp vào nguồn lực và phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Và việc sửa đổi Nghị định 24 trong giai đoạn sắp tới, cần cố gắng đưa được nội dung này vào, khi đó phát triển thị trường vàng của chúng ta mới minh bạch, hiệu quả, an toàn và ổn định.
Theo tôi, trong thời gian vừa qua, ở nhiều quốc gia, cũng cần có sự quản lý giám sát của nhà nước với thị trường vàng, tuy nhiên cách thức quản lý giám sát khác nhau. Mỗi nước có điều kiện riêng, bối cảnh riêng để quản lý thị tường vàng phù hợp, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế hiện nay, có nhiều cách huy động nguồn lực của thị trường vàng, như cho phép huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ chứng nhận vàng và để bảo đảm tính nhất quán, chứng chỉ chứng nhận vàng cần do NHNN phát hành với các biện pháp bảo đảm an toàn và có thể thông qua các NHTM để thực hiện. Việc mua bán chứng chỉ chứng nhận vàng phải tuân thủ quy luật chặt chẽ vì vàng là một loại hàng hóa đặc biệt, là tài sản trú ẩn…
Nếu theo dõi sự biến động của giá vàng trong thời gian vừa qua, chúng ta thấy tính chất trú ẩn của vàng cao, chứ tính chất sinh lợi không cao lắm. Diễn biến giá vàng trong một năm qua cho thấy biến động của giá vàng chỉ khoảng 5-6%, thấp hơn nhiều so với mức lãi suất và thậm chí thấp hơn nhiều so với mức lãi suất trên thị trường Mỹ hiện nay. Tính trong 5 năm qua, giá vàng biến động trong khoảng 40-50%, chưa kể đồng USD mất giá. Cho nên việc người dân tích trữ vàng không chỉ đơn thuần là phương tiện đầu tư mà là phương tiện trú ẩn, người ta muốn giữ vàng để đề phòng bất trắc, rủi ro, do vậy một khối lượng vàng rất lớn đang "nằm chết" trong dân. Một số số liệu ước tính lượng vàng dự trữ trong dân hiện nay là 300 tấn, cũng có số liệu 400-500 tấn, đây là số liệu ước chừng nhưng là con số lớn cần huy động thành nguồn lực tài chính trong sự phát triển KTXH. Nhưng để huy động được nguồn lực này và xây dựng được thị trường vàng trong tương lai, NHNN cần xây dựng các điều kiện, tiêu chí cụ thể đối với thị trường vàng mà chúng ta đề xuất là Sở giao dịch vàng. Về mặt khuyến nghị, tôi cho rằng, thời gian tới, cần sớm tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước để cho phép Sở Giao dịch Hàng hóa được giao dịch mặt hàng vàng kỳ hạn thông qua các loại hợp đồng, như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn như các quốc gia tiên tiến trên thế giới nhưng đồng thời các thành viên tham gia phải đáp ứng được tiêu chuẩn chặt chẽ và được phép xuất nhập khẩu vàng căn cứ vào các điều kiện hợp đồng... do sở giao dịch đó ban hành.
Thứ hai, cần thành lập quỹ tín thác (ETF) vàng như công cụ tài chính quốc tế, và chứng chỉ quỹ này cũng có thể mua trên sở giao dịch để khuyến khích người dân gửi vàng, bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, đầu tư, thay vì nắm giữ vàng miếng. Nếu quỹ tín thác này có thể tham gia mua bán các sản phẩm phái sinh hiện đại giống các sàn giao dịch trên thế giới thì quỹ tín thác bằng vàng sẽ có vai trò như quỹ bình ổn, giảm bớt áp lực đối với cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, cơ quan quản lý và khi giá vàng xảy ra hiện tượng sút giá, góp phần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Ông Nguyễn Việt Anh: Trong chủ đề sàn vàng, ở góc độ của tôi có 2 nội dung. Thứ nhất là chênh lệch giá vàng SJC. Chúng ta đều thấy rằng so với giá vàng thế giới, ta đang ở mức rất cao. Cái này xuất phát từ khi tập trung thương hiệu quốc gia về SJC. Rõ ràng người dân có chỗ tin cậy rất lớn, toàn bộ vàng miếng chắc chắn quay đến SJC. Tôi cho rằng, nếu ngay cả sàn vàng chỉ kinh doanh vàng SJC mà không gắn với việc điều chỉnh nguồn cung thì cũng chưa giải quyết được việc chênh lệch giá. Rõ ràng, từ khi có Nghị định 24, giá vàng được kiểm soát, hoạt động mua bán vàng được kiểm soát nhưng cho tới thời điểm hiện nay, nhu cầu người dân đã lên cao, có lẽ chúng ta cũng nên hài hòa điều tiết lượng này, nếu chúng ta tiếp tục duy trì SJC là thương hiệu vàng quốc gia. Vì đã gắn với quốc gia, tôi tin rằng, ngay cả việc thị trường hóa các thương hiệu vàng khác thì thương hiệu quốc gia vẫn là thương hiệu tin cậy nhất. Cho nên, khi điều hành phần này, chúng tôi cho rằng cũng cần sự hài hòa để cân đối cung-cầu, nếu không sẽ không xử lý được vấn đề chênh lệch giá.
Thứ hai, hình thức giao dịch vàng, chúng tôi thường gọi là giao dịch qua quầy hay qua sàn giao dịch tập trung, tựu chung nằm ở chỗ, khách hàng vàng thực ra trên thế giới phân ra khác, rất ít nhu cầu cất trong kho hay gửi ở đâu đó. Người ta cần mua bán vàng thì sẽ lên các trung gian tài chính và từ đó lên các sàn giao dịch vàng. Ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng bất cứ người kinh doanh, người đầu tư hay người dân đều có 2 nhu cầu đó, nếu phân tách vấn đề này có lẽ sẽ giảm tải được nhiều. Có người muốn mua vàng về giữ, thừa kế, cho tặng, làm trang sức, dự phòng an toàn… gọi là thị trường vàng vật chất. Cũng có những người sợ không giữ cái này khi giá lên sẽ bị thiệt; đây là nhu cầu về đầu tư tài chính, chúng ta nên trả về cho thị trường tài chính giải quyết việc đó…
Hiện tại, tất cả cầu đó dồn hết về thị trường vàng vật chất, sẽ làm tăng lên nguồn cầu trong lúc thị trường biến động. Nếu chúng ta khơi thông được công cụ tài chính cho những người muốn mua bán để cân bằng về giá thì chúng ta giải tỏa được rất nhiều nhu cầu về vàng vật chất. Như GS. Cường nói, nếu chúng ta làm tốt việc đó thì chúng ta cũng không cần nhiều ngoại tệ để nhập nhiều vàng về dập ra vàng miếng phân tán ra cho người dân nữa. Những người mua bán về giá thì chỉ ra vào thị trường tài chính, có thể là qua một trung tâm tài chính hoặc một sàn là một giải pháp chúng ta thực thi trên đó.
Tôi tin rằng, phân tách ra như vậy sẽ giải quyết về mặt dài hạn căn cơ đối với thị trường vàng, bớt cầu về vàng vật chất, chúng ta không phải cân đối ngoại tệ xuất nhập quá nhiều khi chúng ta có nhu cầu…
Một điểm nữa, đã là thương hiệu quốc gia, tôi nhất trí với ý kiến GS. Đạt là chúng ta chứng chỉ hóa và lưu ký ở Nhà nước vì Nhà nước bảo hành cái đó khi chúng ta thành lập trung tâm giao dịch tập trung hay gọi là sàn… Chứng chỉ đó được quyền rút ra, nhưng thông thường các sàn thế giới khi rút ra sẽ cần trình tự và mất phí, khiến người đầu tư thông thường cũng không thật sự muốn rút ra cho tới khi cần.
Từ sự phân tích, dự báo thị trường, các vị khách mời có những kiến nghị, đề xuất tổng thể gì đối với các cơ quan chức năng trong công tác quản lý, phát triển thị trường vàng, bào đảm cho thị trường này ngày càng minh bạch, an toàn, lành mạnh, hiệu quả và bền vững.
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Đây là thời điểm chúng ta cần nhiều giải pháp căn cơ, thay đổi mạnh dạn để thực hiện chỉ thị của Thủ tướng. Chúng ta nên cân nhắc mở rộng vấn đề bình đẳng hàng hóa vàng vật chất, cần thiết phải xem lại có nên duy trì thương hiệu vàng quốc gia hay không.
Nhà nước quản lý là đúng nhưng không có nghĩa là Nhà nước phải nắm trực tiếp sản phẩm đó. Thương hiệu vàng quốc gia đã đến lúc hoàn thành sứ mệnh của nó, chúng ta trả lại cho vàng là sản phẩm hàng hóa thông thường. Doanh nghiệp nào có đủ năng lực sẽ có sản phẩm của mình đưa ra. Nhưng Nhà nước phải quản lý.
Phương thức quản lý bây giờ phải khác đi, chúng ta phải dùng công cụ để điều tiết, tăng cường công cụ về thuế, về kiểm soát thông tin. Vàng không giống các loại hàng hóa khác, nó không bị mất đi mà chỉ từ vàng miếng sang vàng trang sức. Vì vậy quá trình quản lý, vận hành của mặt hàng này, theo tôi Nhà nước phải quản lý chặt.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý cũng cần phải thay đổi. Phải xem lại việc cấp quota, hạn ngạch cho phép xuất khẩu bao nhiêu, sử dụng công cụ thuế để điều tiết… Như vậy, doanh nghiệp nào thấy cần thiết, có hiệu quả thì mới nhập. Chúng ta từ bỏ phương thức quản lý hành chính.
Thứ hai, phải mở thêm các thị trường mới, giao dịch trên tài khoản, trên các công cụ tài chính, điều đó sẽ hạn chế được thị trường vật chất, giúp tiện lợi hơn, hiệu quả, an toàn hơn, không cần thiết phải mua vàng miếng cất ở nhà nữa. Từ đó sẽ thay thế dần được thị trường vàng vật chất, vàng miếng tích trữ. Đương nhiên vàng trang sức là nhu cầu về phát triển thì nên có những chính sách ưu đãi trong xuất nhập khẩu thuận lợi để khuyến khích phát triển.
Nếu giao dịch vàng miếng, vàng tích trữ trên tài khoản thì chúng ta có rất nhiều công cụ để kiểm soát. Sàn giao dịch vàng hãy là đầu mối các sàn giao dịch hàng hóa khác. Vàng vẫn là hàng hóa khá đặc biệt, chúng ta cần phải có cơ chế và phân cấp độ cho các sàn vàng, không chỉ mỗi Nhà nước mà các ngân hàng lớn, các cơ quan lưu ký có đủ tiềm lực đều có thể tham gia vào cơ quan lưu ký, tham gia vào thị trường thứ cấp để lưu thông quốc tế. Mở thị trường sơ cấp cho toàn dân có thể tham gia. Và đương nhiên chúng ta phải có một khuôn khổ pháp lý rất chặt chẽ nhưng lại rộng mở để phát triển thông thoáng, sử dụng các quy luật thị trường cho cả hai nhóm vàng vật chất lẫn vàng giao dịch trên tài khoản.
Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển đổi số, rất cần tích cực mở rộng quản lý trên các công cụ này trong tất cả các hoạt động kinh doanh vàng để mọi người dân biết được thực trạng hoạt động trên thị trường vàng đang như thế nào.
TS. Trần Thọ Đạt: Việc quản lý thị trường vàng, huy động vàng trong dân, quản lý theo Nghị định 24 như vừa qua hay quản lý theo cơ chế thị trường, phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế đều hướng tới mục tiêu chung là hoạt động của thị trường vàng cần lành mạnh, ổn định và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo được hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Hiện tại NHNN quản lý thị trường vàng khá chặt chẽ, hơi mang tính hành chính. Phương thức này phù hợp với bối cảnh năm 2012 khi thị trường vàng có nhiều bất ổn nên chúng ta phải có các giải pháp tình thế mang tính hành chính. Sự chênh lệch giữa giá vàng SJC với giá vàng thế giới trong hơn 2 năm qua đến nay vẫn chưa có sự thay đổi. Tôi cho rằng sự e ngại, do dự của nhà quản lý có vấn đề của nó, có căn nguyên là e ngại nếu chúng ta mở cửa thị trường vàng này thì có thể hiện tượng vàng hóa, bất ổn kinh tế vĩ mô sẽ quay lại. Sự e ngại này có thể hiểu được. Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua, nhờ việc triển khai khá đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp hạn chế tình trạng "đô la hóa", gần như chấm dứt tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế thì sự e ngại đó cơ bản là không còn. Đã đến lúc chúng ta thấy rằng Nghị định 24 hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và cần có sự thay đổi.
Sự thay đổi đó thứ nhất là NHNN chỉ nên thực hiện quản lý và hoạch định hành chính, chính sách, điều tiết, dự trữ ngoại hối bằng vàng theo các pháp lệnh hiện hành, ví dụ như pháp lệnh ngoại hối, Luật NHNN, Luật Các tổ chức tín dụng, mà không tham gia sản xuất kinh doanh và điều tiết thị trường vàng và các biện pháp hành chính, không trực tiếp can dự vào quá trình kinh doanh vàng, trả lại việc kinh doanh vàng cho thị trường.
Tiếp đến, thị trường vàng Việt Nam đã đến lúc phải liên thông với thị trường thế giới, phải loại bỏ chênh lệch giá, đặc biệt là chênh lệch giá vàng SJC như hiện nay bằng các giải pháp thị trường, sản xuất vàng miếng phải trao cho thị trường. Đồng thời, chính sách quản lý thị trường vàng tiến tới tự do hóa xuất nhập khẩu thông qua quản lý thị trường hàng hóa, Nhà nước chỉ điều tiết về chính sách như các nước khác trên thế giới.
Thứ ba là phải sớm chuyển đổi thị trường vàng vật chất sang thị trường vàng kỳ hạn, giao dịch thông qua các hợp đồng.
Điều cuối cùng là quản lý thị trường vàng phải có giải pháp thích hợp để huy động được khối lượng vàng lớn trong dân hiện nay. Chúng ta đã ước tính có khoảng 400 tấn vàng vẫn nằm trong két của người dân.
Tôi có 2 đề xuất cụ thể. Thứ nhất, thị trường vàng trang sức của chúng ta có tiềm năng phát triển. Người Việt Nam rất khéo tay, các doanh nghiệp kỹ nghệ vàng rất có kinh nghiệm, nhưng thời gian vừa qua gặp rất nhiều khó khăn, do nhiều cơ chế như đánh thuế vàng nhập khẩu, ở các nước đều là 0%, chúng ta vừa rồi tăng lên 1%. Tôi nghĩ rằng nên trở lại mức thuế suất 0% thì thị trường vàng trang sức của chúng ta mới có sự cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy thị trường vàng trang sức của chúng ta chỉ xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD, trong khi các nước khác trong khu vực cỡ 6-8-10 tỷ USD.
Nếu chúng ta thông thoáng trong quy định xuất nhập khẩu sẽ là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp vàng phát huy thế mạnh cạnh tranh để xuất khẩu vàng, tạo công ăn việc làm cho ngành nghề sản xuất vốn là thế mạnh của Việt Nam.
Thứ hai, về điều kiện kinh doanh vàng trang sức, đã gọi là vàng trang sức là loại hàng hóa bình thường, vì vậy việc kinh doanh mặt hàng này nên trở thành điều kiện bình thường, không cần có điều kiện.
Qua tọa đàm, chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn những ý kiến phân tích, kiến nghị, khuyến nghị, đề xuất hết sức sức sâu sát, có tính thực tiễn và khả thi cao của các vị đại biểu là khách mời của Tọa đàm... về vấn đề phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững. Những giải pháp được các đại biểu đề cập sẽ là những đóng góp hết sức thiết thực đối với Chính phủ, các cơ quan chức năng trong hoàn thiện các kịch bản, chỉ đạo các nhiệm vụ, giải pháp trong quả lý, phát triển thị trường vàng thời gian tới.
Chúng ta tin tưởng và kỳ vọng rằng, với sự chỉ đạo quyết liệt, sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chủ động vào cuộc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao của các cơ quan chức năng, nhất là những nhiệm vụ cấp bách được Thủ tướng kịp thời chỉ đạo tại Công điện 1426, những bất cập, tồn tại, hạn chế trong hoạt động của thị trường vàng sẽ từng bước được khắc phục, hóa giải, hoạt động của thị trường vàng sẽ tiếp tục phát triển theo hướng ngày càng minh bạch, lành mạnh, hiệu quả và bền vững, tích cực đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong bối cảnh đất nước ta đang có sự phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19.