Truy xuất nguồn gốc điện tử: Giải pháp nâng cao giá trị nông sản
Tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua đã ứng dụng truy xuất nguồn gốc điện tử vào các nông sản đặc trưng, trong đó tiêu biểu là mật ong sú vẹt Kim Sơn đã tạo nên chuyển biến rõ nét, thúc đẩy tiến trình số hóa và nâng cao giá trị nông sản.

Mật ong sú vẹt Kim Sơn tạo được uy tín, thương hiệu với người tiêu dùng nhờ ứng dụng truy xuất nguồn gốc điện tử
Khẳngđịnh thương hiệu mật ong sú vẹt Kim Sơn
HTX nuôi ong mật 27/7 (xã Kim Đông, tỉnh Ninh Bình) được thành lập cuối năm 2023 với 16 thành viên, hoạt động trên vùng rừng ngập mặn rộng gần 1.000 ha nơi đặc trưng với hoa sú, vẹt.
Phó Giám đốc HTX, ông Tạ Đức Tài chia sẻ: Từ nhiều năm trước, người dân bản địa đã biết tận thu “lộc trời” như nuôi ong lấy mặt nơi rừng ngập mặn Kim Sơn, tuy nhiên do mô hình nhỏ lẻ và chưa có thương hiệu rõ ràng nên rất khó tiếp cận thị trường. Nhờ được tỉnh Ninh Bình hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc (TXNG) và máy hạ thủy phần nên mật ong của HTX đạt độ ẩm chuẩn, không lên men, nâng cao chất lượng và giá trị thương mại.
Toàn bộ quy trình từ chăm sóc ong, thu mật theo ngày, vận chuyển, bảo quản, hạ thủy phần đến đóng gói, đều được ghi chép, kèm hình ảnh và video, đưa lên hệ thống truy xuất của HTX. Đây bước tiến nhảy vọt nhằm tạo niềm tin với người tiêu dùng và thuận lợi tham gia các kênh phân phối chính thức, hướng tới xuất khẩu. Mỗi sản phẩm đều tinh khiết, tự nhiên và chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế và đã được đưa lên sản OCOP và các cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, ông Tài cho biết thêm.
Để được dán tem truy xuất, các thành viên phải tuân thủ quy trình nghiêm ngặt như: chăm sóc đàn ong theo đúng quy trình, không được cho ăn đường, không trộn mật, thu hoạch đúng thời điểm và phải kiểm kiểm tra độ đường bằng thiết bị đo… Có như vậy chất lượng mật ong sú vẹt của HTX mới được đảm bảo.
Ông Vũ Mạnh Thắng, Giám đốc HTX Sản xuất và Tiêu thụ Mật ong sú vẹt biển Kim Sơn cho biết: Nhờ được hỗ trợ tem TXNG, sản phẩm có nhãn mác, mã định danh rõ ràng được người tiêu dùng tin tưởng hơn, giá bán cũng dần được tăng lên. Hiện mỗi năm HTX cung ứng ra thị trường khoảng 10 tấn mật ong.
Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn trong thời gian tới tiếp tục nhận được sự quan tâm hỗ trợ duy trì và phát triển khu vực rừng ngập mặn, đây là “vùng nguyên liệu xanh” và là yếu tố quyết định để duy trì chất lượng và sản lượng mật ong TXNG của Ninh Bình.
Anh Vũ Anh Toản, Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại Mật ong sú vẹt Kim Sơn, xã Bình Minh cho biết: Công ty hiện có khoảng 700 thùng ong với sản lượng 7-8 tấn/năm, hiện toàn bộ sản phẩm của công ty đã được gắn mã QR điện tử. Việc áp dụng TXNG mang lại nhiều lợi ích như: doanh nghiệp quản lý tốt nguyên liệu đầu vào, tiết kiệm thời gian và tiếp cận người tiêu dùng nhanh hơn, khách hàng có thể kiểm tra xuất xứ và quy trình sản xuất, nâng cao mức độ tin tưởng, giúp doanh thu tăng 10-20%, đồng thời nâng cao giá trị thương hiệu nông sản và doanh nghiệp.

Thời gian tới, người dân Ninh Bình sẽ tiếp tục được hướng dẫn sử dụng hệ thống TXNG với nhiều sản phẩm đặc trưng khác để hình thành mạng lưới truy xuất đồng bộ trên địa bàn tỉnh
Hướng tới hệ sinh thái nông sản số
Với mục tiêu xây dựng mô hình TXNG sản phẩm mật ong điện tử, phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, có khả năng mở rộng, kết nối và ứng dụng thực tiễn trong sản xuất, quản lý và tiêu thụ sản phẩm, tỉnh Ninh Bình đã triển khai đề tài khoa học “Xây dựng mô hình áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho một số sản phẩm mật ong của tỉnh Ninh Bình” giai đoạn 2024-2025 tại các xã Kim Đông, Bình Minh và Đồng Thái theo chủ chương của Chính phủ, cũng như của địa phương.
Đề tài đảm bảo được 2 yếu tố công nghệ và xã hội, vừa xây dựng hệ thống công nghệ thông tin (phần mềm Smart-Trace) ứng dụng vào sản xuất giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, vừa tổ chức hướng dẫn, đào tạo, thay đổi nhận thức người lao động, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Hệ thống TXNG điện tử được xây dựng dựa trên nguyên tắc: định danh đối tượng, lô sản xuất, địa điểm và người chịu trách nhiệm. Cập nhật dữ liệu theo thời gian thực bằng thiết bị điện tử, lưu trữ và chia sẻ tập trung qua phần mềm quản lý Smart-Trace. Tích hợp mã QR cho từng sản phẩm để người tiêu dùng tra cứu nhanh thông tin, đồng thời kết nối với Cổng TXNG Quốc gia, đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và xác thực.
Đến nay, sau 1 năm triển khai, sản phẩm mật ong có TXNG được thị trường đánh giá cao, giá bán tăng 10-15%, nhiều cơ sở đã ký được hợp đồng tiêu thụ ổn định với các cửa hàng thực phẩm sạch trong và ngoài tỉnh. Đặc biệt, đã hạn chế gian lận, nâng cao uy tín và giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường…
Ông Hoàng Trọng Lễ, Bí thư Đảng ủy xã Kim Đông cho biết: Việc áp dụng TXNG cho sản phẩm mật ong không chỉ giúp quản lý chất lượng mà còn góp phần xây dựng thương hiệu “Mật ong Ninh Bình”an toàn và chất lượng. Đây là bước đi phù hợp với xu hướng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Người dân Kim Đông rất phấn khởi khi tham gia dự án. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục đào tạo, tập huấn, mở rộng mô hình, đồng thời tăng diện tích nuôi ong và quy mô các hộ, doanh nghiệp tham gia, hướng tới xây dựng đàn ong ổn định, nâng cao hiệu quả kinh tế cho bà con trên toàn xã, ông Hoàng Trọng Lễ chia sẻ.
Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn, Đo lường và Chất lượng Ninh Bình, ông Trịnh Đình Thể khẳng định: Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục hướng dẫn người dân sử dụng hệ thống TXNG không chỉ với mật ong mà còn với nhiều sản phẩm đặc trưng khác để hình thành mạng lưới truy xuất đồng bộ trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, sẽ tổ chức các lớp tập huấn đào tạo chuyên sâu về kỹ năng số và TXNG cho cán bộ quản lý. Đồng thời, xây dựng bản đồ số vùng sản xuất nông nghiệp tỉnh, tích hợp TXNG, chỉ dẫn địa lý và truy vết môi trường, từ đó tạo hệ sinh thái số cho sản phẩm OCOP và thương mại điện tử.












