Ung thư đại trực tràng: Đừng chờ đợi xuất hiện triệu chứng mới hành động
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai cho hay, 30% trong tổng số người bệnh đến khám ung thư đại trực tràng tại trung tâm ở giai đoạn muộn, khi đã có những tổn thương di căn.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Cẩm Phương chia sẻ thông tin chuyên môn. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Nhiều người đến viện ở giai đoạn muộn
Chia sẻ tại tọa đàm “Chiến lược sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng tại Việt Nam” do Báo Nhân Dân phối hợp với Viện Công nghệ Phacogen tổ chức sáng 11/5, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Cẩm Phương cho biết, ung thư đại trực tràng thường bắt đầu từ những tổn thương rất nhỏ, như polyp. Phát hiện sớm, ngay từ giai đoạn polyp hoặc ung thư giai đoạn đầu, có thể tăng tỷ lệ sống sót lên đến 93%. Việc tầm soát sớm sẽ giúp xác định nguy cơ của người bệnh, từ đó giúp chẩn đoán sớm, chính xác và kịp thời.
Tuy nhiên, một thực tế gây khó khăn lớn nhất cho việc phát hiện sớm ung thư đại trực tràng ở nước ta là nhận thức của cộng đồng còn hạn chế. Nhiều bệnh nhân đến khám khi bệnh đã tiến triển, do chưa có thói quen tầm soát định kỳ hoặc lo ngại về chi phí, hay sợ phải thực hiện nội soi, gây mê...
"Điều đáng lo là khi bệnh nhân đến khám thường đã đến giai đoạn muộn, chúng tôi tìm thấy các tế bào ung thư xâm lấn sâu vào thành ruột, lan đến hạch bạch huyết, thậm chí di căn xa tới gan hay phổi. Lúc này, cơ hội điều trị thành công giảm đi rất nhiều", bác sĩ Phương chia sẻ.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Khiêm, Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam cho biết, phần lớn các tổn thương ung thư đại trực tràng phát triển âm thầm, không triệu chứng trong giai đoạn đầu. Khi bệnh nhân bắt đầu cảm thấy đau bụng, rối loạn tiêu hóa hay đi ngoài ra máu thì thường đã ở giai đoạn tiến triển.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Khiêm, Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Theo bác sĩ Khiêm, hiện nay, trên thế giới có các phương pháp sàng lọc ung thư đại trực tràng phổ biến như: Nội soi đại tràng (phương pháp tiêu chuẩn, có độ chính xác cao); xét nghiệm máu ẩn trong phân (độ chính xác không tối ưu); nội soi ảo đại tràng (sử dụng chụp cắt lớp CT để tạo hình ảnh 3D của đại tràng, nhưng vẫn cần nội soi nếu có nghi ngờ); xét nghiệm DNA đa mục tiêu trong phân.
Theo thống kê GLOBOCAN năm 2022, nước ta ghi nhận hơn 16.000 ca mắc mới, và trên 8.400 ca tử vong do căn bệnh này – xếp thứ 4 về tỷ lệ mắc và thứ 5 về tỷ lệ tử vong trong các loại ung thư.
Chuyên gia này cho rằng, nếu người dân còn e ngại các biện pháp tầm soát xâm lấn như nội soi thì xét nghiệm máu trong phân là một phương pháp tối ưu đang được một số nước trên thế giới sử dụng.
Với phương pháp này, những dấu hiệu phân tử xuất hiện từ rất sớm trong cơ thể, từ giai đoạn tổn thương tiền ung thư. Hằng ngày, cơ thể đào thải rất nhiều tế bào biểu mô đại tràng và trực tràng qua phân. Vì vậy, nếu có những tín hiệu bất thường ở đại tràng, trực tràng, người bệnh có thể thực hiện xét nghiệm sàng lọc để phát hiện sớm ung thư đại trực tràng từ mẫu phân.
"Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc là 2 quốc gia lớn ứng dụng xét nghiệm DNA đa mục tiêu trong phân, cho thấy độ nhạy và đặc hiệu trên 90%. Mỹ còn khuyến cáo người dân nên làm xét nghiệm này 1-3 năm/lần. Vì vậy, một trong những biện pháp sàng lọc ung thư đại trực tràng tốt nhất là xét nghiệm phân trong cộng đồng. Khi phát hiện dương tính, chúng ta sẽ khuyến cáo bệnh nhân nội soi đại trực tràng để phát hiện xem có những viêm, loét, tổn thương hay không", Giáo sư Khiêm chia sẻ.
Bác sĩ Phương khuyến cáo, mọi người khi thấy triệu chứng bất thường như rối loạn tiêu hóa, đau bụng, thay đổi khuôn phân, đi ngoài ra máu, hoặc lúc nào cũng muốn đi ngoài... cần phải đi khám sớm để phát hiện các tổn thương ngay qua nội soi và thực hiện các thủ thuật xét nghiệm dưới sự can thiệp của nội soi để chẩn đoán bệnh.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Cẩm Phương. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
"Mọi người đừng chờ đợi triệu chứng xuất hiện mới hành động. Hãy chủ động tầm soát định kỳ bằng các phương pháp hiện đại như nội soi đại tràng hoặc eColon, đặc biệt từ 45 tuổi, để phát hiện polyp hay ung thư sớm – khi tỷ lệ chữa khỏi có thể đạt 90%. Ưu tiên các phương pháp sàng lọc đã được kiểm chứng, đặc biệt là những xét nghiệm đạt chuẩn quốc tế như chuẩn IVD", bác sĩ Phương chia sẻ.
Cần có chiến lược sàng lọc sớm từ cộng đồng
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Công Hoàng, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên chia sẻ, nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản hay Hàn Quốc hiện nay đã thực hiện nhiều chẩn đoán sớm trong các lĩnh vực ung thư, nhờ đó, tỷ lệ người bệnh mắc ung thư đã giảm đi nhiều.
Ông cũng cho biết, hiện nay, các chương trình sàng lọc ung thư đại trực tràng đã được triển khai rộng rãi ở cấp quốc gia. Việc tổ chức sàng lọc định kỳ cho người trưởng thành từ độ tuổi 45–50 trở lên đã mang lại hiệu quả rõ rệt, với tỷ lệ phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm tăng cao, đồng thời tỷ lệ mắc mới và tử vong do ung thư đại trực tràng giảm mạnh.
"Tại Mỹ, sau khi tăng cường độ bao phủ sàng lọc trên toàn quốc, tỷ lệ tử vong do ung thư đại trực tràng đã giảm hơn 50% trong vòng ba thập kỷ (theo CDC). Ở Anh, chương trình sàng lọc quốc gia giúp tăng tỷ lệ phát hiện ung thư giai đoạn sớm lên gấp 4 lần so trước, đồng thời góp phần giảm tỷ lệ tử vong đáng kể...", Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Công Hoàng dẫn chứng.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Công Hoàng, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên chia sẻ tại tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Những kết quả này nhấn mạnh vai trò thiết yếu của sàng lọc trong chiến lược phòng ngừa và kiểm soát ung thư đại trực tràng tại cộng đồng.
Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên cho rằng, chiến lược sàng lọc ung thư đại trực tràng tại Việt Nam nên được định hướng theo 3 trụ cột: Thứ nhất, tăng cường truyền thông và giáo dục sức khỏe, giúp cộng đồng hiểu được mình nên tầm soát từ tuổi 45 như các khuyến cáo đề cập. Đồng thời, tự soi chiếu lại các tiền sử bản thân và gia đình để tự đánh giá được nguy cơ ung thư đại trực tràng của mình và tìm gặp các cán bộ y tế khi cần thiết.
Thứ hai, đưa hoạt động sàng lọc lồng ghép vào khám sức khỏe định kỳ tại cơ sở y tế. Cuối cùng là ưu tiên ứng dụng các phương pháp sàng lọc không xâm lấn, dễ triển khai, chi phí hợp lý. Đây là phương pháp hoàn toàn có thể tích hợp vào chương trình sàng lọc cộng đồng quy mô lớn mà không gây áp lực cho hệ thống y tế.

Các đại biểu chia sẻ kiến thức chuyên môn tại tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Cẩm Phương hy vọng thời gian tới, Bộ Y tế cùng các chuyên gia đầu ngành sẽ xây dựng hướng dẫn sàng lọc để các cơ sở y tế có một bộ hướng dẫn chuẩn, tránh tình trạng lạm dụng chỉ định nhiều xét nghiệm trong tầm soát bệnh ung thư.
"Tôi mong những hướng dẫn sàng lọc này tập trung vào các đối tượng nguy cơ cao và được bảo hiểm y tế chi trả. Nếu có sự đồng hành của bảo hiểm y tế, sẽ giúp nhiều người phát hiện bệnh từ giai đoạn sớm, chi phí điều trị thấp mà hiệu quả điều trị cao. Khi đó, chúng ta thấy giá trị của việc sàng lọc sớm cho cộng đồng", bác sĩ Phương chia sẻ.