VCCI kiến nghị Thủ tướng gỡ vướng về thuế giá trị gia tăng cho nông sản Việt
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ việc khôi phục hoặc khôi phục có thời hạn quy định không phải kê khai, tính thuế giá trị gia tăng (VAT) với sản phẩm nông nghiệp sơ chế.
Trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản – những ngành hàng có vai trò then chốt trong nền kinh tế quốc dân – đã tích cực triển khai thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) số 48/2024/QH15 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, sau hơn ba tháng thực thi, VCCI đã tiếp nhận rất nhiều phản ánh từ các Hiệp hội, ngành hàng chủ lực như Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), Cà phê – Ca cao, Hồ tiêu và cây gia vị, Chăn nuôi, Lương thực – Thực phẩm, Gỗ và Lâm sản… về những vướng mắc lớn đang phát sinh trên thực tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng tiền, năng lực cạnh tranh, khả năng duy trì chuỗi cung ứng và thị phần xuất khẩu của nông sản Việt Nam.

VCCI vừa kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ việc khôi phục hoặc khôi phục có thời hạn quy định không phải kê khai, tính thuế giá trị gia tăng (VAT) với sản phẩm nông nghiệp sơ chế. (Nguồn: Báo Nông nghiệp Việt Nam)
Nhiều vướng mắc phát sinh
Trong văn bản gửi tới Thủ tướng Chính phủ, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã báo cáo nhiều vướng mắc, phát sinh khi áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo quy định tại điểm d, khoản 2, điều 9 của Luật Thuế giá trị gia tăng, các sản phẩm chưa chế biến thành sản phẩm khác hoặc sơ chế thông thường bị áp thuế giá trị gia tăng (VAT) ở mức 5%. Tuy nhiên trên thực tế các sản phẩm nông nghiệp như cà phê, tiêu, điều, tôm, cá, gỗ nguyên liệu… chủ yếu chỉ trải qua các công đoạn sơ chế như: bóc vỏ, phơi, sấy, xát, không làm phát sinh giá trị gia tăng thực chất.
Nên VCCI cho rằng việc áp thuế VAT 5% với nhóm hàng hóa nông sản này là chưa phù hợp với bản chất thuế VAT vốn chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Đặc biệt cơ chế thu trước, hoàn sau thuế VAT đang khiến các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong ngành nông nghiệp phải ứng trước một lượng vốn lớn để thực hiện nghĩa vụ thuế VAT, trong khi lợi nhuận biên của các ngành hàng này rất thấp, chỉ từ 1-3%.
Ví dụ, để hoàn thành nghĩa vụ thuế VAT với sản phẩm nông nghiệp sơ chế, ngành cà phê phải nộp khoảng 10.000 tỉ đồng/năm, ngành hồ tiêu phải nộp khoảng 2.235 tỉ đồng/năm, gây áp lực tài chính lớn với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.
Điều này làm tăng giá thành xuất khẩu, khiến hàng nông sản Việt mất lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia như Brazil, Indonesia, Ấn Độ - nơi hàng nông sản thô được miễn hoặc áp thuế VAT 0%.
Hay Luật Thuế GTGT quy định thức ăn chăn nuôi là đối tượng không chịu thuế. Tuy nhiên, nhiều cơ quan thuế địa phương vẫn áp thuế 5% đối với nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô, cám gạo, bã bia, bột cá... khi bán ở khâu thương mại.
Cách hiểu này chưa đồng bộ với Luật Chăn nuôi và Thông tư 21/2019/TT-BNNPTNT, làm tăng chi phí sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước, tạo bất lợi cạnh tranh so với hàng nhập khẩu (không chịu thuế GTGT), đồng thời làm giảm tiêu thụ nguyên liệu nông sản nội địa.
Cũng theo VCCI, nhiều doanh nghiệp phản ánh việc hoàn thuế bị kéo dài nhiều tháng, thậm chí bị từ chối vì lý do nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Đặc biệt, quy định mới tại Luật Thuế GTGT 2024 yêu cầu bên bán phải “kê khai và nộp thuế” thì doanh nghiệp mới được hoàn thuế. Quy định này là bất hợp lý vì chuyển giao trách nhiệm của bên bán sang bên mua – người đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế. Trách nhiệm xác minh, kiểm tra thuộc về cơ quan thuế, không thể bắt doanh nghiệp “ngay tình” phải gánh rủi ro về việc vi phạm nghĩa vụ thuế của bên bán...
6 kiến nghị giải pháp gỡ vướng
Để tháo gỡ khó khăn và bảo đảm chính sách thuế hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu nông sản, VCCI đã đưa ra 6 kiến nghị cụ thể.
Thứ nhất,đề nghị khẩn trương rà soát, sửa đổi quy định liên quan đến phạm vi chịu thuế GTGT đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường.
VCCI kiến nghị xem xét khôi phục (hoặc khôi phục có thời hạn) quy định “không phải kê khai, tính thuế” đối với các sản phẩm nông nghiệp sơ chế như đã từng được áp dụng tại Nghị định 209/2013/NĐ-CP. Đồng thời, cần giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành danh mục cụ thể các loại “sản phẩm sơ chế thông thường” nhằm đảm bảo thống nhất trong áp dụng.
Thứ hai,cần có giải pháp đồng bộ để cải cách mạnh mẽ thủ tục hoàn thuế GTGT, hướng tới đơn giản hóa quy trình và tăng cường tính minh bạch.
VCCI kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính xây dựng cơ chế hoàn thuế tự động đối với các hồ sơ hợp lệ, không có dấu hiệu gian lận, tương tự như mô hình đã được triển khai tại một số quốc gia như Ấn Độ. Song song đó, cần phát triển hệ thống dữ liệu điện tử liên thông giữa cơ quan thuế, hải quan và doanh nghiệp để hỗ trợ xác thực nhanh chóng.
Thứ ba, đề nghị điều chỉnh quy định liên quan đến điều kiện hoàn thuế, theo hướng loại bỏ yêu cầu doanh nghiệp chỉ được hoàn thuế khi nhà cung cấp đã kê khai, nộp thuế. Đây là một điều kiện không hợp lý, vì trách nhiệm quản lý nghĩa vụ thuế của người bán phải thuộc về cơ quan thuế, không thể chuyển giao rủi ro cho người mua.
Thứ tư, cần sớm ban hành hướng dẫn pháp lý đặc thù nhằm tháo gỡ vướng mắc trong giao dịch giữa doanh nghiệp và hộ nông dân nhỏ lẻ.
VCCI đề nghị cho phép doanh nghiệp sử dụng bảng kê mua hàng không hóa đơn (theo mẫu tại Thông tư 78/2021/TT-BTC) như một loại chứng từ thay thế để làm căn cứ khấu trừ và hoàn thuế.
Thứ năm, trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển, cần xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thuế khi xuất khẩu qua các nền tảng trực tuyến như Amazon, Alibaba.
VCCI kiến nghị cho phép sử dụng chứng từ điện tử, dữ liệu giao dịch số làm căn cứ xác minh trong hoàn thuế xuất khẩu.
Thứ sáu, kiến nghị rà soát lại toàn bộ hệ thống xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
VCCI đề xuất phân loại mức độ vi phạm, áp dụng hình thức xử lý hợp lý, nhân văn, và kiến nghị áp dụng cơ chế khoan hồng đối với vi phạm lần đầu, miễn phạt đối với sai sót nhỏ dưới ngưỡng 50.000 đồng nhằm khuyến khích tinh thần tuân thủ tự nguyện, thay vì gây tâm lý e ngại cho người nộp thuế.












