320 năm vùng đất Vũng Gù - Tân An (1705 -2025) - Người đi khai mở đất phương Nam

Đến TP.Tân An - trung tâm tỉnh Long An nằm bên dòng Vàm Cỏ Tây êm đềm và thơ mộng, đang từng ngày thay đổi với khát vọng vươn lên, có ai biết rằng lịch sử nơi đây gắn liền với một vị đại công thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu mà tên ông được đặt cho một tuyến đường cặpkênh Bảo Định chảy qua giữa lòng thành phố, nối hai miền Đông và Tây Nam Bộ. Ông là Chánh thống Cai cơ Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân.

Ngược dòng lịch sử, sau khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược đất phương Nam, lập phủ Gia Định gồm 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn vào năm 1698 đánh dấu việc thiết lập thiết chế chính trị đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ, từ đó làm tiền đề cho các hoạt động khai phá mở rộng tiếp theo.

Năm 1705, lợi dụng tình hình rối ren trong nội bộ Chân Lạp do tranh chấp quyền lực, nước Xiêm La hậu thuẫn cho Nặc Thâm dấy binh, đưa liên quân Xiêm La và Chân Lạp chia hai đường theo sông Tiền và sông Vàm Cỏ đánh vào vùng đất Nam Bộ, định đánh cắt đứt vùng đất người Việt mới khai phá thành hai đoạn.

Trước tình hình trên, mùa Thu tháng 7 cùng năm, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân thống lĩnh quân thủy bộ Gia Định tiến xuống Sầm Khê (tức Rạch Gầm, tỉnh Tiền Giang ngày nay), chặn đánh quân Xiêm; lệnh cho Xá sai ty Phiên Trấn Mai Công Hương làm Tào vận, chuyển lương thực theo sau đại quân tiếp ứng. Khi mũi tiên phong của viện binh Xiêm La xuống tới Sầm Khê thì bị lực lượng phục binh của Nguyễn Cửu Vân đánh tan vỡ.

Mũi thứ hai do quân Chân Lạp đảm nhận, tiến xuống khu vực vàm Bao Ngược, nơi hợp lưu giữa 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây (thuộc địa phận xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ ngày nay), chặn đánh thuyền tiếp vận lương thực của Mai Công Hương. Quân ít, biết không thể chống cự nổi, Mai Công Hương ra lệnh đục thủng thuyền làm đắm lương thực và ông cũng tử tiết để tránh rơi vào tay giặc.

Chúa Nguyễn nghe tin Mai Công Hương tử tiết đã ban phong làm thần “Vị quốc tử nghĩa” và cho dựng đền để thờ, chính là miễu Ông Bần Quỳ ngày nay. Phía giặc, do không lấy được gì, lại nghe quân tiền phương đại bại nên rút quân bỏ chạy. Sau khi thất bại, Nặc Thâm cùng em là Nặc Tân chạy sang Xiêm La lánh nạn. Nặc Yêm được Nguyễn Cửu Vân đưa về thành La Bích (tức Longvek, Campuchia ngày nay), ổn định tình hình Chân Lạp.

Tuyến đường Nguyễn Cửu Vân cặp kênh Bảo Định chảy qua giữa lòng TP.Tân An (Ảnh: Thanh Nga)

Tuyến đường Nguyễn Cửu Vân cặp kênh Bảo Định chảy qua giữa lòng TP.Tân An (Ảnh: Thanh Nga)

Nguyễn Cửu Vân có tên húy là Hành, không rõ năm sinh, theo Phổ hệ vốn họ Nguyễn ở Vụ Bổn, Nam Định mà sơ tổ là khai quốc công thần nhà Đinh thế kỷ thứ X, Định Quốc Công Nguyễn Bặc. Đến đời thứ 10 là ngài Phụ Đạo Huệ Quốc Công Nguyễn Biện, do bất hợp tác với Hồ Quý Ly nên đem gia quyến vào Gia Miêu Ngoại Trang (Thanh Hóa) và được xem là thủy tổ của dòng họ Nguyễn Cửu và nơi đây cũng được xem là quê hương phát tích của dòng họ.

Đến đời thứ 18 là ngài Nghĩa Lâm Hầu Nguyễn Cửu Kiều thấy họ Trịnh chuyên quyền, ức hiếp vua Lê nên năm 1623 vào Nam, được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng, cho nắm nhiều chức vụ quan trọng, gả hoàng nữ Ngọc Đỉnh và ban quốc tính “Phúc” cho dòng họ này. Năm 1820, vua Minh Mạng ban sắc chỉ đổi lại thành họ Nguyễn Cửu và dòng tộc này chính thức mang họ Nguyễn Cửu đến ngày nay.

Nguyễn Cửu Kiều có 10 người con, trong đó có 2 người nổi tiếng được sử sách nhắc đến là Nguyễn Cửu Ứng và Nguyễn Cửu Dực. Nguyễn Cửu Vân là con trai duy nhất của Trấn thủ Chưởng dinh - Đặc Tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Chỉ huy sứ Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Dực (tức Nguyễn Cửu Kế).

Nguyễn Cửu Vân có 10 người con, trong đó có 3 người rất nổi tiếng là Triêm Ân Hầu Nguyễn Cửu Búa (tức Nguyễn Cửu Triêm), Đàm Ân Hầu Nguyễn Cửu Đàm và Nguyễn Thị Khánh - dân gian thường gọi là bà Nghè.

Trở lại sự kiện năm 1705, trận chiến lịch sử này bước đầu đã bảo vệ được thành quả lao động khẩn hoang của các cư dân đang sinh sống, khai thác trên vùng đất trải dài từ sông Vàm Cỏ đến sông Tiền, đặc biệt là vùng Mỹ Tho đại phố được tạo lập trong gần 30 năm qua kể từ khi Dương Ngạn Địch đến khai phá năm 1679; đồng thời, tạo thế và lực mới để các lưu dân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, phát triển, mở rộng sản xuất.

Sau khi ổn định tình hình Chân Lạp, để phòng giữ miền biên cảnh và vùng đất Mỹ Tho, Nguyễn Cửu Vân đưa quân về đóng trú tại Vũng Gù - một vùng đất rộng lớn nằm giữa 2 tỉnh Tiền Giang và Long An ngày nay, để tổ chức xây dựng tuyến phòng thủ và khẩn hoang.

Sở dĩ ông chọn Vũng Gù là do nơi đây án ngữ trên tuyến thủy lộ quan trọng nên có thể kiểm soát sự ra vào của Chân Lạp, lại nằm ở giữa 2 trung tâm lớn là Gia Định và Mỹ Tho nên thuận tiện để huy động nhân lực và vật lực phục vụ phòng thủ, khẩn hoang.

Tại đây, để phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt, giao thông, quốc phòng, ông cho đắp lũy và đào một con kinh nhỏ dài khoảng 9km để hào lũy, nối rạch Vũng Gù tại quán Thị Cai (nay là chợ Tịnh Hà, xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) thẳng tới khoảng giữa rạch Mỹ Tho tại địa điểm chợ Lương Phú (còn có tên dân gian là chợ Bến Tranh, thuộc xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang ngày nay). Nhờ đó mà hai đầu nguồn của hai con rạch này được thông suốt nhau tạo thành một con kênh mà sách sử và dân gian quen tục gọi là kênh Vũng Gù.

Kênh Vũng Gù được xem là “mối đại lợi phổ thông” làm thay đổi diện mạo một vùng đất rộng lớn từ sông Vàm Cỏ đến sông Tiền. Sau hơn 100 năm dần bị bồi lấp, thuyền bè qua lại khó khăn nên năm 1819, vua Gia Long sai quan trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện Hầu Nguyễn Văn Phong cho nạo vét và nới rộng dòng kênh, đến ngày 28/5/1819 thì hoàn thành và đặt tên là Bảo Định hà, là kênh đào nhân tạo đầu tiên ở Nam Bộ, được người đương thời ví như quốc lộ đường thủy huyết mạch để thông thương từ Đồng bằng sông Cửu Long lên Gia Định. Đến năm 1835, thời Minh Mạng đổi tên thành sông Trí Tường, đến thời Thiệu Trị đổi tên thành sông An Định và thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo de la Poster tức kênh Bưu Điện.

Song song với đắp lũy, đào kênh Vũng Gù, dọc theo dải đất con kinh này, Chánh thống Cai cơ Nguyễn Cửu Vân và Cai vệ Phạm Hoằng Lộc còn chiêu tập quân dân khẩn hoang theo hình thức đồn điền tại vùng Khánh Hậu, Tân Hương, Hòa Tịnh, Mỹ Tịnh An, Lương Hòa Lạc, Tân Hiệp, Tân Lý,...

Phía đối diện, ở bờ Bắc sông Vàm Cỏ Tây, Nguyễn Cửu Vân cho dân binh khai khẩn lập các thôn Bình Khuê, Bình Trung, Bình Thuyên, nay là khu vực phường 5 và xã Nhơn Thạnh Trung, TP.Tân An.

Ngoài khu vực Vũng Gù, Nguyễn Cửu Vân còn tổ chức khẩn hoang, chia cấp ruộng đất cho quân dân tại nhiều khu vực khác ở Nam Bộ như vùng Mô Xoài, vùng bờ Nam sông Phước Long, tức sông Đồng Nai.

Năm 1711, ông được thăng làm Trấn Biên doanh phó tướng, cùng với Trần Thượng Xuyên chăm lo việc an dân trên vùng đất mới. Để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa, tinh thần của lưu dân đi khẩn hoang, giúp họ an ổn tinh thần để yên chí lập nghiệp, tại bờ Nam sông Phước Long, Nguyễn Cửu Vân còn cho xây dựng, tu bổ chùa, miếu như đền Long Vương (khu phố Thái Bình, phường Long Bình, TP.Thủ Đức, TP.HCM), Sắc Tứ Hộ Quốc Quan tự - một trong những ngôi cổ tự danh tiếng ở miền Nam (nay thuộc khu phố 1, phường Tân Vạn, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

Về sau, Nguyễn Cửu Vân được triệu về kinh Thuận Hóa - Phú Xuân, sau đó ốm mất. Điều đáng tiếc là các sách sử không ghi chép rõ về năm mất của ông như các bậc công thần cùng thời, chỉ biết ông mất vào ngày 29/4 Âm lịch, được an táng tại xứ Sơn Cồn Động, nay thuộc xã Như Lệ, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

Vì có công lao lớn trong đánh giặc, khẩn hoang mở mang bờ cõi nên năm 1715, chúa Nguyễn chuẩn ban một phần ruộng đất ở khu vực bờ Bắc sông Vàm Cỏ Tây cho người con trai trưởng của ông là Nguyễn Cửu Triêm làm quan điền biệt thực, sau làm tự điền để làm chi phí phụng thờ Nguyễn Cửu Vân nên nhân dân gọi đó là ruộng Châu Phê, sông ấy là sông Châu Phê, nay còn địa danh ở phường 5 và xã Nhơn Thạnh Trung, TP.Tân An.

Tiếp nối di sản tinh thần của Nguyễn Cửu Vân trong bảo vệ, khai mở bờ cõi phía Nam, những người con của ông là Nguyễn Cửu Triêm và Nguyễn Cửu Đàm đều là những danh tướng, được triều Nguyễn tôn vinh, truy phong tước Hầu và chép thành truyện riêng để làm gương cho đời sau.

Người con cả là Nguyễn Cửu Triêm, là Phó tướng, nối cha làm Lưu Thủ Trấn Biên. Người Chân Lạp xâm nhiễu biên giới, Triêm làm giám quân đánh dẹp. Triêm ở trong quân, người Chân Lạp sợ như cọp nên được giao cho Thống lĩnh quân doanh Trấn Biên. Người con thứ 5 là Đốc chiến Chưởng cơ Đàm Ân Hầu Nguyễn Cửu Đàm. Khi người Xiêm xâm lấn Hà Tiên và Nam Giang, năm 1772, Chánh Thống Đàm tiến quân đường Tiền Giang, phá tan quân Xiêm ở Nam Giang, người Xiêm xin hòa, sau khi ổn định tình hình Chân Lạp, ông đem quân về Gia Định, đề phòng sự tấn công trở lại của quân Xiêm, cho đắp lũy Tân Hoa hay còn gọi là lũy Bán Bích, bên ngoài lũy cho đào một con kênh thẳng như ruột ngựa nên gọi là kênh Ruột Ngựa - đây là thủy lộ góp phần quan trọng trong việc phòng thủ Gia Định.

Với những lợi ích về quân sự, giao thông, kinh tế của lũy Bán Bích và kênh Ruột Ngựa mang lại, Nguyễn Cửu Đàm được lịch sử ghi nhận như là nhà quy hoạch Sài Gòn thời bấy giờ. Sau khi mất, ông được vua Gia Long cho vào thờ tại miếu Trung tiết công thần. Và người con gái của Nguyễn Cửu Vân là Nguyễn Thị Khánh, dân gian thường gọi là bà Nghè hay Thị Nghè là người tổ chức khai khẩn vùng sông Bình Trị, tức rạch Thị Nghè ngày nay, còn địa danh ở TP.HCM.

Dù đảm nhiệm trong thời gian ngắn ngủi từ năm 1705-1711 nhưng Nguyễn Cửu Vân đã “xuất hiện” một cách “hoàn hảo” trong chiến lược an dân, mở rộng và bảo vệ lãnh thổ của chúa Nguyễn Phúc Chu - một vị chúa đặc biệt có công lớn trong mở mang lãnh thổ phía Nam. Thông qua các hoạt động chính trị, quân sự, khẩn hoang, Nguyễn Cửu Vân không chỉ trực tiếp giúp chúa Nguyễn “dựng nghiệp” xác lập vị thế chính trị mà còn đẩy nhanh quá trình khai khẩn, mở rộng lãnh thổ và phát triển KT-XH ở vùng đất Nam Bộ.

Không chỉ là một tướng lĩnh quân sự, với nhãn quan chính trị - kinh tế của một nhà doanh điền có tâm thế đã kết hợp tổ chức khai khẩn đất đai, đắp lũy, đào kênh với phòng thủ giữ yên bờ cõi, tấm lòng hộ Quốc chúa vì an dân đã đưa Chánh thống Cai cơ Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân từ một vị danh thần trở thành một vị Thành hoàng của cả vùng đất mới vài trăm năm tuổi.

Nối tiếp truyền thống tôn vinh các bậc công thần có công với quê hương, đất nước, với công lao được sử sách xác quyết rằng: “Khi Vân ở biên thùy, người Chân Lạp theo phục, rất có công trong việc mở mang miền Nam”. Từ đời chúa Nguyễn Phúc Chu đến đời vua Tự Đức đã có nhiều hình thức tôn vinh và tri ân đối với Nguyễn Cửu Vân, tiêu biểu là sau khi vương triều Nguyễn được thiết lập năm 1802, đã truy phong ông tước “Hầu” - tước vị cao xếp thứ hai sau tước Công, trong hệ thống “ngũ đẳng tước” (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) của các triều đại quân chủ Việt Nam, là người lập được nhiều công trạng to lớn.

Với tâm thức ứng xử văn hóa truyền thống “sinh vi tướng, tử vi thần” của người Việt đối với những bậc anh hùng, danh nhân có công với quê hương, đất nước, triều Nguyễn tinh biểu công trạng của ông bằng việc chính thức hóa danh phận và ngôi thứ trong hệ thống bách thần được phỏng theo quan giai cõi trần với phẩm trật Thượng đẳng thần, phụng thủ tại miếu Hội đồng Vĩnh Long (3 đạo sắc phong thời Thiệu Trị năm thứ 7 (năm 1848) và thời Tự Đức năm thứ 3 (năm 1850)) và miếu Hội đồng Định Tường (3 đạo sắc phong thời Thiệu Trị năm thứ 5 (năm 1846) và 1 sắc năm Tự Đức thứ 3 (năm 1850)) để nhân dân thờ phụng muôn đời.

Ngoài ra, ông còn được nhân dân Nam Bộ tôn kính, phối tự thờ với các bậc công thần khác có công với quê hương, đất nước như Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Trấn Quận Công Bùi Tá Hán, Trấn Biên dinh Tham tướng Phù Quận công Lương Văn Chánh, Thắng Tài Hầu Trần Thượng Xuyên,... tại đình Phú Lạc (xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TP.HCM, được xây dựng từ thời Minh Mạng), đình Long Thới (thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIX).

Sự hòa đồng của các hình thức tôn vinh giữa triều đình phong kiến với dân gian cho thấy sự thống nhất của xã hội Nam Bộ bấy giờ trong việc công nhận công lao của Nguyễn Cửu Vân đối với vùng đất phía Nam bờ cõi. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử nhưng hình tượng của Nguyễn Cửu Vân vẫn âm thầm cuộn chảy trong lòng dân gian Nam Bộ cho đến tận ngày nay mà đền thờ Nam Phương Linh (thuộc Khu du lịch văn hóa Phương Nam, xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) - nơi tôn vinh, tưởng nhớ 125 nhân vật lịch sử có công khai hoang, mở cõi, gìn giữ và làm rạng danh vùng đất phương Nam, bằng hình thức tượng thờ đồng như vua Quang Trung, vua Gia Long, Mạc Thiên Tích, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại,... trong đó có Nguyễn Cửu Vân, là một minh chứng.

Năm 1997, tên Nguyễn Cửu Vân được đặt cho một tuyến đường ở thị xã Tân An (nay là TP.Tân An) cặp theo kênh Bảo Định lịch sử, là sự tôn vinh đầy ý nghĩa. Có thể khẳng định rằng, Nguyễn Cửu Vân không chỉ là bậc huân thần “giúp Chúa Nguyễn dựng nghiệp, mở mang bờ cõi” mà đối với nhân dân Nam Bộ, ông còn được xem như một vị Thượng đẳng phúc thần đảm nhận vai trò “hộ quốc tí dân”, là danh nhân lịch sử mà sự nghiệp có tầm ảnh hưởng sâu, rộng và quan trọng đến lịch sử phát triển của một dân tộc - anh hùng của một vùng đất, ở đây là vùng đất Nam Bộ mà Tân An (Long An) là nơi để lại dấu ấn lịch sử thể hiện tài năng và tầm nhìn sáng tạo trong sự nghiệp an dân mở cõi.

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Cửu Vân là di sản tinh thần quý giá của đất và người Long An, của nền văn hóa Nam Bộ và dân tộc nói chung, cần được phát huy mạnh mẽ để trở thành nhân tố quan trọng trong xây dựng văn hóa và con người Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.

Nguyễn Tấn Quốc

(Theo Hội Khoa học lịch sử tỉnh Long An, Nguyễn Cửu Vân với vùng đất Nam Bộ, NXB Hội Nhà Văn, 2024)

Nguồn Long An: https://baolongan.vn/320-nam-vung-dat-vung-gu-tan-an-1705-2025-nguoi-di-khai-mo-dat-phuong-nam-a191097.html