Bài cuối: Bảo hiểm nông nghiệp bị bỏ rơi?

Chính phủ đã ban hành Nghị định 58/2018/NĐ-CP về Bảo hiểm nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp. Song, quy định trên khó khăn triển khai, cần sửa đổi, bổ sung.

Thủ tục phức tạp, doanh nghiệp không mặn mà

Trao đổi với PV Báo Xây dựng, lãnh đạo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết đến nay, sau 6 năm thực hiện Nghị định 58/2028/NĐ-CP, kết quả thực hiện bảo hiểm nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Theo đó, bảo hiểm cây lúa chỉ có 12.911 hộ nông dân tham gia, doanh thu 3,91 tỷ đồng, bồi thường 0,145 tỷ đồng tại Nghệ An, Thái Bình. Bảo hiểm vật nuôi có 3.820 hộ nông dân tham gia, doanh thu 2,97 tỷ đồng, bồi thường 0,053 tỷ đồng tại Hà Giang, Bình Định.

Người dân thôn Phú Hữu mất gần hết tài sản, trắng tay sau lũ.

Người dân thôn Phú Hữu mất gần hết tài sản, trắng tay sau lũ.

Trong thời gian 2022 đến nay, sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp không được triển khai tại các địa phương do các doanh nghiệp không tham gia, mặc dù các địa phương đã ban hành địa bàn, đối tượng đủ điều kiện hưởng chính sách. Theo quy định tại Nghị định 58/2018/NĐ-CP các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp để hưởng chính sách hỗ trợ phải do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng và được Bộ Tài chính phê chuẩn.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp không đề xuất cung cấp sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp trên thị trường vì hiệu quả thấp, rủi ro cao và thủ tục còn phức tạp, thiếu thông tin về quy trình kỹ thuật, giám sát và xác nhận khi rủi ro xảy ra, không hấp dẫn các nhà tái bảo hiểm.

Sau 6 năm từ khi ban hành Nghị định 58/2018/NĐ-CP, mới chỉ có 2 doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt và Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Bảo Minh triển khai. Số lượng các hộ nông dân tham gia chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp thấp, không đảm bảo nguyên tắc số đông bù số ít của bảo hiểm (chủ yếu hộ nghèo, hộ cận nghèo, không tổ chức nào tham gia bảo hiểm).

Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhìn nhận, tình trạng trên xuất phát từ chính sách hỗ trợ bảo hiểm thiếu hấp dẫn chưa đáp ứng đúng nhu cầu của cả bên mua và bán bảo hiểm, hạn chế đối tượng, địa bàn, loại rủi ro; thủ tục xét duyệt, phê duyệt, chi trả cho doanh nghiệp còn phức tạp; chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp mới chú trọng đến an sinh xã hội (hỗ trợ hộ nghèo phí mua bảo hiểm) mà chưa quan tâm đến phục vụ phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn; chưa coi bảo hiểm như một công cụ tài chính (cùng với tín dụng) để hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp; chưa gắn bó bảo hiểm nông nghiệp với phòng chống rủi ro trong sản xuất của hợp tác xã, doanh nghiệp và nông hộ, do đó chưa có nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp tham gia bảo hiểm.

Doanh nghiệp bảo hiểm ít có sự hỗ trợ từ Nhà nước, khó tìm được nhà tái chi phí tái bảo hiểm cao. Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp quá lớn, đặc biệt là các rủi ro do biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Do vậy, khi triển khai bảo hiểm nông nghiệp, các doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải tái bảo hiểm ra nước ngoài và phụ thuộc hoàn toàn điều kiện, điều khoản và phí bảo hiểm vào nhà tái quốc tế.

Thiếu công cụ và lực lượng giám sát, đề phòng hạn chế tổn thất trong nông nghiệp. Mạng lưới của doanh nghiệp bảo hiểm chưa đủ về số lượng và kiến thức về nông nghiệp nên công tác giám sát đề phòng hạn chế tổn thất gặp nhiều khó khăn, không đủ nguồn lực và chi phí để giám sát, đề phòng hạn chế tổn thất đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm. Doanh nghiệp thiếu thông tin đầu vào để thiết kế sản phẩm, giám sát xác nhận về thiên tai, dịch bệnh.

Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong bảo hiểm nông nghiệp

Ông Vũ Văn Tiến, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, kinh nghiệm ở một số quốc gia, Nhà nước với tư cách là nhà tái bảo hiểm cuối cùng, doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ triển khai các sản phẩm bảo hiểm phù hợp hơn và đảm bảo an toàn hơn với nhu cầu của tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp.

Dân rốn lũ Hòa Thịnh mất sạch tài sản sau trận lũ, lúa mới thu hoạch về bị hư hỏng (Ảnh: Ngọc Hùng).

Dân rốn lũ Hòa Thịnh mất sạch tài sản sau trận lũ, lúa mới thu hoạch về bị hư hỏng (Ảnh: Ngọc Hùng).

Thay mặt Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú đã ký ban hành Kết luận số 213-KL/TW ngày 21/11/2025 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Ban Bí thư yêu cầu, trong năm 2026, cơ bản hoàn thành việc rà soát, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng của Đảng thành văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về phòng, chống thiên tai, các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, chỉ tiêu thiết kế đối với hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là đê điều, hồ đập, công trình thoát lũ, hạ tầng năng lượng, thông tin liên lạc... bảo đảm đủ năng lực chống chịu với các thiên tai cực đoan.

Cùng với đó, cần sửa đổi, bổ sung quy hoạch hệ thống kho tàng, các quy định về danh mục, xuất, cấp hàng dự trữ quốc gia đáp ứng kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai; hoàn thiện các quy định về xử lý, giải quyết trong tình huống khẩn cấp; điều chỉnh các quy trình vận hành liên hồ, đơn hồ chứa thủy điện, thủy lợi, trong đó phải ưu tiên dành dung tích hữu ích của hồ để cắt lũ cho hạ du; có cơ chế huy động nguồn lực của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân và khuyến khích, hỗ trợ phát triển các quỹ, định chế tài chính, tín dụng tham gia hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai.

Ban Bí thư cũng nhấn mạnh việc chủ động bổ sung, điều chỉnh chiến lược, kế hoạch, phương án phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai phù hợp với thực tiễn của từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là duy trì hoạt động thường xuyên, liên tục của các cơ sở tránh trú, bệnh viện, trường học, hạ tầng giao thông, điện, thông tin liên lạc... khi xảy ra thiên tai. Đẩy mạnh việc lồng ghép nội dung yêu cầu phòng, chống thiên tai trong quy hoạch, đầu tư xây dựng đô thị, khu dân cư, công trình hạ tầng; bố trí, sắp xếp lại và nâng cao năng lực ứng phó của các khu dân cư, khu du lịch ở các vùng có nguy cơ cao chịu tác động của thiên tai; tăng cường bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực sông, lòng sông, bảo đảm khả năng tiêu, thoát lũ...

Để phát triển bảo hiểm nông nghiệp trong nước, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đã kiến nghị, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong bảo hiểm nông nghiệp như: Thực hiện tái bảo hiểm, huy động tái bảo hiểm, phân công các bộ, ngành, địa phương: Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm nông nghiệp, tham mưu cho Chính phủ hoàn thiện thể chế chính sách về bảo hiểm theo hướng tiếp cận hướng tới đối tượng sản xuất hàng hóa, có quy mô, giá trị sản xuất cao; Bộ Nông nghiệp và PTTN (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quản lý quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật sản xuất, hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp bảo hiểm trong xác định thiên tai, dịch bệnh, quản lý quá trình sản xuất, xác nhận năng xuất, sản lượng thực tế và thiệt hại khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đảm bảo các thông tin được khách quan, công khai, minh bạch tạo niềm tin giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người dân tham gia bảo hiểm.

Đồng thời, cơ quan ban ngành có liên quan rà soát hoàn thiện thể chế chính sách thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về chính sách trong thực hiện bảo hiểm nông nghiệp. Rà soát sửa đổi Nghị định 58 cho phù hợp, tăng mức hỗ trợ phí; mở rộng đối tượng loại rủi ro theo nhu cầu thị trường; sửa đổi cơ chế hỗ trợ (hồ sơ, trình tự thủ tục phê duyệt đối tượng được hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp theo hướng lược bỏ những thủ tục không cần thiết và phân cấp địa phương); xem xét việc bổ sung, điều chỉnh một số nội dung tại Nghị định 58 cho phù hợp với chức năng, trách nhiệm bộ ngành, địa phương.

Tập trung khuyến khích phát triển bảo hiểm thương mại, xây dựng sản phẩm bảo hiểm theo hướng tập trung vào các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực và các rủi ro cấp thiết tại các vùng miền (các loại thiên tai, dịch bệnh thường gặp, có tác động đến sản xuất) phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân. Bảo hiểm nông nghiệp phải trở thành một phần của chính sách quản lý rủi ro trong sản xuất nông nghiệp.

Ông Tiến cũng kiến nghị, triển khai bảo hiểm nông nghiệp gắn với tín dụng (ngân hàng giảm một phần lãi suất để trả phí bảo hiểm. Ngân hàng được bảo đảm vốn vay vì trường hợp rủi ro xảy ra trong sản xuất do thiên tai, dịch bệnh người vay đã có bảo hiểm, không bị nợ xấu. Người vay được lợi vì được giảm lãi suất để mua bảo hiểm, được hỗ trợ từ bảo hiểm nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm người sản xuất phải tuân thủ theo quy định về kỹ thuật của cơ quan chuyên ngành nên sẽ giúp sản xuất có chất lượng, bảo đảm tính bền vững.

Ông Đỗ Minh Hoàng, Thành viên HĐQT Bảo hiểm Agribank nhìn nhận, nếu hệ thống bảo hiểm được mở rộng và triển khai hiệu quả, phần lớn gánh nặng sản xuất nông nghiệp của nông dân được san sẻ. Bảo hiểm nông nghiệp giúp bảo vệ cây trồng, vật nuôi và thu nhập của người dân; bảo hiểm tài sản bảo vệ nhà cửa, kho tàng; bảo hiểm con người hỗ trợ khi xảy ra tai nạn, thương tật do thiên tai. Nhờ đó, người dân có thể yên tâm sản xuất, nhanh chóng phục hồi sau bão lũ, giảm áp lực lên ngân sách, ngân hàng và các tổ chức cộng đồng. Đây là công cụ thiết thực giúp xã hội ứng phó hiệu quả hơn với thiên tai, đồng thời nâng cao khả năng thích ứng bền vững cho cộng đồng nông thôn.

Để bảo hiểm thực sự trở thành "lá chắn tài chính" cho người dân sau thiên tai, trách nhiệm không chỉ thuộc về ngành bảo hiểm mà còn là bài toán của toàn bộ hệ thống chính sách.

Chuyên gia tài chính TS Nguyễn Chí Hiếu cũng cho rằng, bảo hiểm nông nghiệp là một cơ chế bảo hiểm cho nông dân thất thoát mùa màng, thiên tai. Ở Việt Nam, chưa nhiều nên chưa mặn mà lắm. Nhưng đây là vấn đề cần phổ biến rộng rãi, giúp họ hiểu sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ người nghèo, quá nghèo, thậm chí có thể có cơ chế bắt buộc xây dựng nguồn bảo hiểm giúp sản xuất nông nghiệp chủ động ứng phó thiệt hại thiên tai, giảm gánh nặng lên nguồn ngân sách Nhà nước.

Bảo hiểm nông nghiệp chống đói nghèo

Tham khảo của PV Báo Xây dựng, Mỹ đã triển khai Bảo hiểm cây trồng liên bang. Bảo hiểm này áp dụng cho hơn 100 loại cây trồng. Chính phủ hỗ trợ cho BHNN bằng nhiều cách: cung cấp các khoản trợ cấp bảo hiểm (cho cây trồng một tỷ lệ phí khoảng từ 48 - 67%, tỷ lệ bảo hiểm vật nuôi khoảng 13%), cung cấp miễn phí hợp đồng bảo hiểm năng suất thiên tai cơ bản cho toàn bộ diện tích cây trồng. Mức bồi thường của hợp đồng cơ bản này là phần tổn thất vượt quá 50% năng suất bình quân của 4 năm trước năm bị tổn thất và tỷ lệ bồi thường chỉ bằng 60% giá trị thị trường dự tính. Nông dân có thể mua thêm mức trách nhiệm cao, với mức phí có trợ cấp 38% từ chính phủ.

Bảo hiểm nông nghiệp sẽ bảo vệ cây trồng của những người tham gia hợp đồng khỏi những tổn thất không lường trước được.

Bảo hiểm nông nghiệp sẽ bảo vệ cây trồng của những người tham gia hợp đồng khỏi những tổn thất không lường trước được.

Trung quốc cũng triển khai bảo hiểm nông nghiệp nhiều năm, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm đối với ba loại lương thực chủ yếu là lúa nước, lúa mì và ngô đạt trên 70%; mật độ BHNN (chi phí bảo hiểm/số người làm nông nghiệp) đạt 500 nhân dân tệ/người.

Tại Nhật Bản, Chính phủ Nhật Bản cung cấp khoảng 50% trợ cấp phí bảo hiểm. Ngoài ra, Tokyo đóng vai trò là nhà tái bảo hiểm cuối cùng cho toàn bộ chương trình BHNN. Theo ước tính từ Cục Cải thiện quản lý của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản, trong giai đoạn từ 1990-2005, chính phủ Nhật Bản đã chi trung bình 640 triệu USD/năm để trợ cấp 50% chi phí phí cứu trợ lẫn nhau trong nông nghiệp. Bảo Hiểm nông nghiệp ở Nhật Bản có thể được tóm tắt trong năm điểm chính: Chính phủ tái bảo hiểm cho các dự án của chương trình ngoại trừ bảo hiểm nhà ở cho người nông dân; Việc thực hiện các dự án là bắt buộc đối với các hiệp hội sản xuất gạo, lúa mì, lúa mạch, chăn nuôi; Bảo hiểm lúa, lúa mì và lúa mạch là bắt buộc; chính phủ trả một phần phí bảo hiểm mà người nông dân bỏ ra và cuối cùng, chính phủ chịu một phần chi phí hoạt động của các tổ chức, công ty BHNN...

Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc - LHQ (FAO), nhìn nhận hiện nay, khoảng 70% diện tích đất toàn cầu được sử dụng cho nông nghiệp, đất đai và lâm nghiệp. Mỗi năm, thiên tai và thảm họa như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh động vật và tràn hóa chất... đã gây thiệt hại hàng chục tỷ USD cho nông dân ở các nước trên thế giới. Vì vậy, BHNN sẽ là "chỗ dựa" của người nông dân cũng như doanh nghiệp nông nghiệp.

Công ty BHNN của Ấn Độ (AIC) khẳng định, BHNN sẽ bảo vệ cây trồng của những người tham gia hợp đồng khỏi những tổn thất không lường trước được. Phần lớn sinh kế của nông dân phụ thuộc vào chất lượng và sản lượng sản phẩm mà họ sản xuất, BHNN sẽ hỗ trợ họ trong việc chống lại đói nghèo.

AIC chỉ ra một số lợi ích lớn của BHNN đem lại, đầu tiên là ổn định thu nhập khi nó giống như một công cụ cho phép nông dân quản lý rủi ro về năng suất và giá cả, giúp bảo vệ người nông dân trước những thiệt hại do mất mùa, thiên tai, dịch bệnh. Tối giảm nợ khi người nông dân có thể hoàn trả các khoản vay của họ ngay cả trong thời gian mất mùa với sự hỗ trợ của các đối tác bảo hiểm phù hợp. Tiến bộ công nghệ khi khuyến khích việc áp dụng, nâng cao thực hành nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất và bảo vệ năng suất cây trồng, kể cả khi số lượng bị tổn thất thì bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm đưa ra các biện pháp để phòng, tránh cũng như trồng lại vào vụ tới.

Khẩn cấp bổ sung quy hoạch đất di dân, tránh trú vùng nguy cơ thiên tai

Ông Vũ Văn Tiến, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, nhằm phục hồi nông nghiệp sau thiên tai, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, thời gian qua nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, tập trung vào 4 nhóm: nhóm về quy hoạch, kế hoạch gắn với thiên tai, tập trung vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nhóm chính sách về tài chính; nhóm chính sách về thuế; nhóm chính sách hỗ trợ phát triển và nhóm chính sách đảm bảo an sinh, phát triển bền vững. Cách chính sách đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách, giúp người dân từng bước vượt qua khó khăn.

Song, thực tế cũng cho thấy vẫn còn những khó khăn phổ biến là tình trạng thiếu quy hoạch đất tái định cư, phục vụ di dời người dân khỏi vùng nguy cơ thiên tai. Do đó, dù điều kiện chính sách khác rất tốt, nhưng khi tìm đất di dời người dân sang vùng an toàn thì không có đất để triển khai, đáp ứng yêu cầu cấp bách.

Đây cũng là nguyên nhân, nhiều địa phương trả lại ngân sách trung ương hỗ trợ phục hồi, phát triển sau thiên tai. "Khi bão lũ xảy ra, ngân sách đầu tư được lấy từ nguồn cấp bách, thực hiện theo luật ngân sách. Theo quy định Luật Ngân sách, thời gian thực hiện 1 năm. Nhưng địa phương thiếu chủ động, thời hạn 1 năm không kịp cho quy hoạch, lập kế hoạch, chuyển đổi đất để tổ chức thực hiện nên phải trả lại nhà nước. Trong khi đó, rủi ro thiên tai có thể đổ xuống người dân bất cứ lúc nào".

Bên cạnh đó là khó khăn trong xây dựng nguồn ngân sách phục vụ nhiệm vụ cấp bách. Theo ông Tiến, Chính phủ đã có Quyết định số 590/QĐ-TTg, Phê duyệt Chương trình Bố trí dân cư các vùng: Thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, khu rừng đặc dụng giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sự cố thiên tai xảy ra bất thường, sau khi đã phê duyệt ngân sách đầu tư công hàng năm, nên dẫn đến tình trạng có sự cố cấp bách xảy ra không có nguồn ngân sách để triển khai.

Do đó, ông Tiến đề nghị các địa phương rà soát tổng hợp, đề xuất các dự án về bố trí dân cư; tổng hợp đưa dự án vào chương trình đầu tư công 2026-2030; tổ chức thực hiện quan tâm đến quỹ đất để bố trí dân, di dời người dân vùng nguy cơ thiên tai ra nơi an toàn. Sau khi bố trí ổn định dân cư phải quan tâm ổn định sinh kế lâu dài. Bên cạnh đó, các địa phương cần quan tâm xây dựng các công trình tránh trú phòng chống lũ lụt, thiên tai, nhà đa năng, giúp người dân có địa điểm tránh trú an toàn.

Nhóm PV

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/bai-cuoi-bao-hiem-nong-nghiep-bi-bo-roi-192251204163522894.htm