Bảo tồn và phát triển múa dân gian dân tộc: Muôn vàn gian khó

Nước ta có 54 dân tộc anh em, với bản sắc văn hóa rất đa dạng và phong phú. Múa dân gian dân tộc được coi là tài sản quý báu của văn hóa dân tộc, mạch nguồn khơi dậy cảm hứng sáng tạo trong nghệ thuật múa. Tuy nhiên, trong đời sống nghệ thuật sôi động hiện nay, bảo tồn và phát triển thể loại múa này đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức.

Phóng viên Văn nghệ Công an đã có cuộc bàn luận với Thạc sĩ Trương Thị Ngọc Bích, Trưởng khoa Diễn viên múa, Học viện Múa Việt Nam về chủ đề này.

- Là một người làm công tác nghệ thuật và đào tạo về múa dân gian dân tộc, chị có những đánh giá và nhìn nhận như thế nào về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát triển múa dân gian dân tộc trong giai đoạn hiện nay?

Thạc sĩ Trương Thị Ngọc Bích.

Thạc sĩ Trương Thị Ngọc Bích.

+ Múa dân gian dân tộc là một trong những di sản văn hóa phi vật thể quý báu, chứa đựng tâm hồn, bản sắc, tín ngưỡng, lối sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nghệ thuật múa dân gian không chỉ là mang giá trị tinh thần nuôi dưỡng đời sống văn hóa cộng đồng, là cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Chính vì vậy, việc bảo tồn, phát triển múa dân gian dân tộc hiện nay mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng vừa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, hòa nhập nhưng không hòa tan, sáng tạo thích ứng với đời sống hiện nay.

Trong đào tạo, chúng tôi luôn xác định đó là nhiệm vụ cốt lõi, giúp thế hệ nghệ sĩ trẻ ý thức rõ trách nhiệm gìn giữ và lan tỏa giá trị nghệ thuật truyền thống quý báu này. Việt Nam chúng ta có thể hoàn toàn tự hào về nền văn hóa dân tộc của chúng ta. Khâu đầu tiên của việc bảo tồn là sưu tầm, nghiên cứu, nắm vững nguồn gốc, phong tục tập quán múa dân tộc. Muốn bảo tồn phải có sự xuyên suốt, đồng bộ trong việc quản lý, triển khai. Cần tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn giáo viên trình độ chuyên môn cao để trang bị kiến thức về nghệ thuật dân tộc cho người làm công tác múa một cách toàn diện, sâu sắc.

- Với tầm quan trọng như thế thì múa dân gian dân tộc là một trong nhiều hình thức mà thể hiện rõ nét nhất giá trị bản sắc văn hóa vùng miền của từng dân tộc. Các tác phẩm múa nổi tiếng của nước ta cũng được ra đời và bắt nguồn từ vẻ đẹp đấy phải không thưa chị?

+ Việt Nam chúng ta có 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, phong phú, độc đáo. Từng vùng miền có nhiều điệu múa rất hay, ví dụ ở miền Bắc, vùng đồng bằng Bắc Bộ có tác phẩm múa “Những cô gái Việt Nam” của NSND Chu Thúy Quỳnh, múa nón quai thao “Thoáng xuân quan họ” của NSƯT Quốc Toản, múa quạt “Hồn gió Việt” của NSND Phạm Anh Phương. Miền Trung Tây Nguyên có tác phẩm “Nơi hoang dã” của NSND Công Nhạc, tác phẩm “Lời ru của rừng” của NSND Phạm Anh Phương. Tất cả tác phẩm đó mang hơi thở, tâm tư, tình cảm của mỗi một dân tộc.

Bảo tồn văn hóa là bảo tồn nét đẹp của dân tộc Việt Nam.

Bảo tồn văn hóa là bảo tồn nét đẹp của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta biết vũ điệu của người dân Tây Nguyên hồn nhiên, mềm mại.Dân tộc vùng Tây Bắc ưa chuộng cách nhảy múa rộn ràng, vui nhộn. Điệu múa của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ chú trọng sự mềm mại, uyển chuyển, chậm rãi. Người Mường có múa sạp, chàm đuống, chàm thau. Người Thái múa xòe nón, xòe khăn, xòe vòng. Người Khmer múa Xayăm, rồm vông. Người Êđê múa khiên, múa trống.

Tồn tại song song, gắn bó mật thiết với múa dân gian là múa tín ngưỡng như múa hầu đồng của người Việt, kim pang then của người Thái, múa cấp sắc của người Dao. Ngoài ra, múa cung đình mang tính chất chuyên nghiệp tồn tại trong cộng đồng người Việt và người Chăm nhằm phục vụ tầng lớp vua chúa ngày xưa.

Múa dân gian dân tộc luôn giữ được vai trò quan trọng, là diện mạo quốc gia, sức mạnh mềm, động lực cho sự phát triển của nền kinh tế, tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam. Trong xã hội hiện đại, di sản múa dân gian có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành múa chuyên nghiệp Việt Nam. Do đó, việc bảo tồn, kế thừa, phát huy giá trị múa dân gian cần được ngành chức năng quan tâm, thúc đẩy.

- Khẳng định những giá trị của mình trong nền nghệ thuật dân tộc và suốt một chặng đường dài lịch sử, tuy nhiên trong giai đoạn phát triển và hội nhập hiện nay, nghệ thuật múa dân gian dân tộc cũng đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Chị có đánh giá ra sao?

+ Múa dân gian dân tộc đã khẳng định giá trị qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành một phần máu thịt trong văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, ở giai đoạn hội nhập hiện nay, nghệ thuật này đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Thứ nhất, sự lấn át của các loại hình giải trí hiện đại khiến múa dân gian chưa thật sự hấp dẫn lớp trẻ. Đời sống nghệ sĩ còn nhiều vất vả, môi trường sáng tạo và biểu diễn còn hạn chế. Thứ hai, việc nghiên cứu, sưu tầm và truyền dạy múa dân gian dân tộc ở nhiều nơi chưa có tính hệ thống, nguy cơ thất truyền một số điệu múa khi những nghệ nhân lớn tuổi dần mất đi và mang theo.

Song song với khó khăn, đây là động lực chúng ta đổi mới: cần kết hợp bảo tồn nguyên bản với sáng tạo, phù hợp thị hiếu, ứng dụng công nghệ trong quảng bá, gắn múa dân gian với du lịch, giao lưu quốc tế. Tôi tin rằng nếu có chiến lược đúng đắn, sự đồng hành của các cơ sở đào tạo, các nghệ sĩ và cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian dân tộc sẽ được bảo tồn, có cơ hội tỏa sáng mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập.

- Sự giao thoa tiếp biến các dân tộc sẽ dẫn đến sự pha tạp giữa các điệu múa dân tộc. Đây có phải là khó khăn trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa dân gian dân tộc không, thưa chị?

+ Đúng là sự giao thoa văn hóa có thể làm nảy sinh nguy cơ pha tạp, làm mờ đi bản sắc nguyên gốc múa dân gian các dân tộc. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây vừa là khó khăn, vừa là cơ hội. Nếu chúng ta thiếu ý thức gìn giữ sự pha tạp có thể dẫn đến mất gốc, đồng hóa. Nhưng nếu biết khai thác, tiếp biến có chọn lọc, múa dân gian sẽ có thêm sức sống mới, gần gũi hơn với công chúng đương đại, vẫn giữ được cái “hồn cốt” của từng dân tộc.

Thách thức đặt ra cho người làm công tác huấn luyện, biên đạo và biểu diễn nghệ thuật múa cần xác định ranh giới rõ ràng: khi nào phải giữ nguyên bản và sáng tạo nhưng không được mất đi cái gốc. Ví dụ, khi biên đạo một tác phẩm múa của dân tộc, người biên đạo có sáng tạo đến đâu cũng phải giữ động tác cơ bản. Đó là cái gốc, cốt lõi để từ đó phát triển và nhận diện dân tộc.

Điệu múa của người Tây Bắc.

Điệu múa của người Tây Bắc.

- Thực tế đó cho thấy sự khai thác quá đà ngôn ngữ múa hiện đại trong sáng tác ngôn ngữ múa dân gian khiến múa dân tộc mất đi nguyên gốc của nó, đặc biệt là trong sân khấu. Chị thấy đúng vậy không?

+ Tôi nghĩ đấy là những trường hợp không am hiểu sâu sắc về múa dân gian dân tộc mới xảy ra tình trạng quá đà trong quá trình biên đạo, biên đạo múa gạo cội không có chuyện như thế. Để giữ nguyên giá trị, bản sắc văn hóa điệu múa dân tộc, cần tư duy, tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển ngành múa Việt Nam dựa trên nền tảng chất liệu múa dân gian. Trong đó, việc đầu tư tài chính, đặc biệt đầu tư chuyên môn để lực lượng nghệ sĩ không ngừng sáng tạo, nâng cao chất lượng. Điều này chúng ta sẽ đưa nghệ thuật múa dân gian lên một tầm cao mới, là hoạt động thiết thực.

Cùng với đó, cần khai thác, phát huy giá trị nghệ thuật múa dân gian dân tộc các vùng miền, dân tộc thiểu số phù hợp, tổ chức thành sản phẩm văn hóa du lịch, nhằm lan tỏa nghệ thuật múa dân gian đến cộng đồng người dân trong nước và quốc tế. Đó là giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy giá trị độc đáo múa dân gian các dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Việt Nam đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, ngành văn hóa Việt Nam dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác bảo tồn và phát huynét tinh hoa của loại hình nghệ thuật này là điều thiết thực.

- Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của chị!

Vân Khánh

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/bao-ton-va-phat-trien-mua-dan-gian-dan-toc-muon-van-gian-kho-i781749/