Chính sách hỗ trợ chưa đủ sức níu giữ các nghệ nhân
Để ngăn chặn nguy cơ mai một các di sản văn hóa quý giá, nhiều chuyên gia văn hóa cho rằng cần thay đổi cách tiếp cận: không chỉ dừng ở việc phong tặng danh hiệu, mà phải có cơ chế đãi ngộ thực chất bằng việc tăng mức trợ cấp các nghệ nhân...
Những năm gần đây, Nhà nước quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho việc bảo tồn các hình thức văn hóa, nghệ thuật truyền thống. Nhiều công trình văn hóa vật thể và phi vật thể được trình hồ sơ lên UNESCO để công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Song nghệ nhân dân gian - những người góp công sức không nhỏ vào việc giữ gìn, trao truyền các giá trị văn hóa quý báu đó lại chưa được hưởng sự đãi ngộ hợp lý. Họ vẫn sống trong cảnh khó khăn, thiếu hỗ trợ, khiến cho di sản quý giá có nguy cơ bị mai một, thậm chí thất truyền.
Sự thiệt thòi của nghệ nhân
Nói đến văn hóa truyền thống, chúng ta thường nghĩ ngay đến những di sản được UNESCO vinh danh như: Ca trù, Quan họ, Hát Xoan, Nhã nhạc cung đình Huế hay không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Nhưng phía sau ánh hào quang ấy là những con người âm thầm gìn giữ, sống chết với nghề - những nghệ nhân được mệnh danh là “di sản sống”.
Ở nhiều làng nghề, những bậc cao niên chính là người duy nhất còn nắm giữ bí quyết chế tác. Ví dụ như ở làng làm trống Đọi Tam (Ninh Bình), có nghệ nhân cả đời gắn bó với tiếng trống hội, vừa làm nghề, vừa lo lắng rằng con cháu sẽ không còn theo đuổi. Ở làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), nhiều nghệ nhân gạo cội cho rằng lớp trẻ ngày nay tuy có tiếp cận công nghệ mới, nhưng sự tinh xảo, “hồn” trong từng sản phẩm thủ công lại chỉ có thể học được qua nhiều năm khổ luyện bên cạnh nghệ nhân lành nghề.
Trong lĩnh vực di sản phi vật thể, ca nương ca trù, nghệ nhân quan họ hay các nghệ sĩ cải lương, tuồng cổ cũng mang gánh nặng gìn giữ tinh hoa. Họ vừa là người sáng tạo, vừa là người truyền dạy. Không có họ, di sản chỉ còn lại trong sách vở hay trên băng đĩa, mất đi tính sống động vốn có.
Một thực tế đáng buồn là nhiều nghệ nhân dù có cống hiến cả đời cho di sản nhưng vẫn phải mưu sinh bằng nghề khác, thậm chí sống trong cảnh túng thiếu. Nghệ nhân Văn Hùng, 59 tuổi tại làng nghề dệt chiếu cói (Thanh Hóa) trầm ngâm: “Làm nghề này cực lắm, thu nhập chẳng bao nhiêu, con cháu chẳng mặn mà tiếp nối. Để tăng thêm thu nhập, tôi vẫn phải làm ruộng, làm vườn. Vì vậy, tôi chẳng còn nhiều thời gian và tâm sức để đi truyền dạy thế hệ sau”.
Với các loại hình diễn xướng dân gian, nghệ nhân thường chỉ có dịp biểu diễn khi địa phương tổ chức lễ hội. Ngoài ra, họ ít có cơ hội kiếm sống bằng nghề. Không ít nghệ nhân tuổi cao sức yếu vẫn miệt mài đi truyền dạy miễn phí, mong giữ nghề, nhưng học trò lại thưa dần vì áp lực cơm áo, gạo tiền.
Cố GS. TS Ngô Đức Thịnh, Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam từng kể trường hợp của nghệ nhân Điểu Klung (Đắk Lắk), một người có đóng góp rất lớn vào dự án nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên. Say sưa, hết lòng với văn hóa dân gian nhưng nghệ nhân Điểu Klung vẫn sống trong nghèo khó. Lúc đó, ông không có khoản trợ cấp nào, sống tạm bợ trong ngôi nhà mà tài sản không có gì ngoài hàng trăm cuốn băng đĩa, bản thu âm cũng như các cuốn sách ghi chép lại sử thi truyền miệng của người M’Nông. Hay nghệ nhân Phạm Ngọc Thức (Thanh Hóa) tuổi đã ngoài 80 vẫn phải bám biển mưu sinh. Nghệ nhân Đặng Thị Hới (Quảng Trị) ngày ngày phải bám đồng ruộng, bởi không làm lụng họ sẽ không có tiền trang trải cuộc sống…
Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể được quy định cụ thể tại Nghị định số 215/2025/NĐ-CP của Chính phủ. Theo Nghị định, Nhà nước trợ cấp sinh hoạt hàng tháng đối với Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú; đóng bảo hiểm y tế đối với nghệ Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú.
Nhà nước cũng hỗ trợ Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú tham gia các hoạt động lưu truyền, phổ biến di sản văn hóa phi vật thể và đào tạo, bồi dưỡng, truyền dạy những người kế cận; hỗ trợ nghệ nhân, người thực hành tham gia hướng dẫn, tập huấn, truyền dạy cho cộng đồng.
Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số, nghệ nhân sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, nghệ nhân là người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Nghệ nhân Ưu tú khi mất thì cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tổ chức mai táng được nhà nước hỗ trợ chi phí mai táng.

Nghệ nhân góp công sức không nhỏ vào việc giữ gìn, trao truyền các giá trị văn hóa quý báu cho thế hệ trẻ. (Ảnh: Quảng Thọ)
Mức trợ cấp hàng tháng đối với Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú có thu nhập thấp từ ngày 01/7/2024 chỉ từ 700 nghìn đồng - 1 triệu đồng/tháng. Những nghệ nhân được hưởng trợ cấp thì số tiền hàng tháng đó cũng không giúp họ cải thiện được nhiều cuộc sống vốn đã khó khăn. Trong khi đó, số lượng nghệ nhân chưa được phong tặng thì lại càng thiệt thòi hơn khi không có bất kỳ hỗ trợ nào, dù họ vẫn miệt mài gìn giữ di sản.
Nhiều địa phương còn lúng túng trong việc lập hồ sơ phong tặng, dẫn đến chậm trễ hoặc bỏ sót những nghệ nhân thực sự xứng đáng. Một số ý kiến từ các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: “Chúng ta đang mới dừng lại ở việc tôn vinh, còn chính sách hỗ trợ thì chưa đủ sức níu giữ các nghệ nhân”.
Chính sách đãi ngộ của Nhà nước trong bảo vệ di sản văn hóa những năm qua thực tế chưa tác động nhiều đến các nghệ nhân, những người nắm giữ tinh thần cho di sản.
Nguy cơ thất truyền nghề truyền thống
Trong vòng xoáy của kinh tế thị trường, nhiều nghề thủ công truyền thống đã biến mất hoặc chỉ còn tồn tại trong bảo tàng. Nghề dệt chiếu, nghề đan lát, nghề làm tò he, nghề rèn truyền thống… đều đang rơi vào tình cảnh lay lắt.
Các nghệ nhân mải lo “cơm áo gạo tiền” rất khó có thời gian và tâm huyết truyền dạy các di sản văn hóa. Ngoài ra, hầu hết các nghệ nhân đều tuổi cao, sức yếu, nếu nghệ nhân mất đi mang theo di sản văn hóa phi vật thể mà họ nắm giữ. Còn người trẻ hiện nay ít ai muốn theo nghề, bởi thu nhập bấp bênh, công việc vất vả. Điều này đã hạn chế trong việc tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc là một nguyên nhân dẫn đến sự mai một của những di sản quý giá của dân tộc.
Để ngăn chặn nguy cơ mai một, nhiều chuyên gia văn hóa cho rằng cần thay đổi cách tiếp cận: không chỉ dừng ở việc phong tặng danh hiệu, mà phải có cơ chế đãi ngộ thực chất bằng việc tăng mức trợ cấp các nghệ nhân.
GS.TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đưa ra ý kiến, cùng với chính sách hỗ trợ, địa phương có thể thành lập một quỹ tài trợ cho các hoạt động bảo tồn, phát huy văn hóa dân gian, nhằm huy động nguồn lực xã hội hóa, góp phần bổ sung kinh phí cho các hoạt động tôn vinh quảng bá di sản. Việc có nguồn hỗ trợ để nghệ nhân đỡ lo toan về đời sống, từ đó có thể toàn tâm, toàn ý cho hoạt động bảo tồn di sản là điều cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi nhiều người đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, sức khỏe có hạn. Trong khi, tình yêu, trách nhiệm của các nghệ nhân là “mạch nguồn” cho sức sống bền bỉ của các di sản văn hóa. Bên cạnh những hoạt động vinh danh, ghi nhận công lao, còn cần có những hỗ trợ thiết thực hơn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho lực lượng này gìn giữ, trao truyền vốn di sản văn hóa quý giá của dân tộc.

Nghệ nhân nặn tò he giữ lửa nghề truyền thống cha ông. (Ảnh: Mộng Kha)
Để có thêm kinh phí hỗ trợ các nghệ nhân, nhiều ý kiến cho rằng, với nghề thủ công, cần kết hợp giữa gìn giữ và sáng tạo. Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội cần hỗ trợ đầu ra sản phẩm, gắn với du lịch trải nghiệm. Với di sản văn hóa phi vật thể, các địa phương cần tổ chức nhiều sân khấu, liên hoan kết hợp với du lịch, tạo điều kiện để nghệ nhân có đất diễn, thu nhập và duy trì đam mê. Một số mô hình đã thành công như phát triển du lịch cộng đồng gắn với cồng chiêng Tây Nguyên, đưa quan họ vào tour du lịch Bắc Ninh, phát triển làng gốm Bát Tràng thành điểm đến hấp dẫn. Đây là hướng đi vừa bảo tồn di sản, vừa tạo động lực phát triển kinh tế.
Mỗi nghề truyền thống, mỗi loại hình di sản phi vật thể là kết tinh hàng trăm năm, hàng nghìn lịch sử. Nếu chúng ta không có chính sách thiết thực để bảo vệ, thì sự mất mát sẽ không thể bù đắp.
Nguy cơ thất truyền đang hiện hữu, nhưng nếu có sự chung tay từ Nhà nước, cộng đồng và thế hệ trẻ, những giá trị vô giá ấy vẫn có thể tiếp tục tỏa sáng. Giữ gìn “di sản sống” chính là giữ lấy hồn dân tộc - điều làm nên bản sắc Việt Nam trong dòng chảy toàn cầu hóa.
Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/chinh-sach-ho-tro-chua-du-suc-niu-giu-cac-nghe-nhan.html