Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon: DN xuất khẩu cần định hướng đúng để ứng phó
Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (cơ chế CBAM) được Liên minh châu Âu (EU) ban hành, với mục tiêu xử lý lượng phát thải khí nhà kính trong một số hàng hóa nhất định nhập khẩu vào EU, sẽ bước vào giai đoạn chính thức vận hành từ ngày 1/1/2026.
Cần tìm hiểu cơ chế CBAM từ nhiều nguồn thông tin
Cơ chế CBAM sẽ áp thuế carbon đối với các hàng hóa thuộc diện điều chỉnh khi xuất khẩu vào thị trường EU, dựa trên mức độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất, trước mắt áp dụng đối với 6 nhóm mặt hàng gồm xi măng, điện, phân bón, sắt thép, nhôm và hydrogen.
Mặc dù lộ trình vận hành chính thức của cơ chế CBAM không còn xa, nhưng đến nay vẫn chưa có đánh giá tác động một cách toàn diện và hướng dẫn chính thức, thống nhất cho DN. Như bày tỏ của ông Đinh Quốc Thái, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), các DN ngành thép đã phải tiến hành tìm hiểu CBAM từ rất nhiều các nguồn thông tin khác nhau.
Do đó, việc Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối, chủ trì việc hướng dẫn cho các DN ngành thép nói riêng và các DN Việt Nam nói chung các thông tin liên quan đến CBAM, cùng các biện pháp ứng phó là một sự rất cần thiết, giúp cho DN tiếp cận được các thông tin chính thống từ cơ quan quản lý nhà nước.
“Các DN Việt Nam phải thực hiện quy định về mặt luật pháp của EU, nếu có một cơ quan chính thống để hướng dẫn DN là hết sức cần thiết. Các DN hy vọng Bộ Công Thương trong thời gian tới sẽ giúp hiểu rõ và sâu sắc hơn các việc cần phải làm từ yêu cầu của EU và ứng phó có hiệu quả hơn với cơ chế CBAM”, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam, ông Đinh Quốc Thái nói.
Thực tế thời gian qua, ngoại trừ một số DN hoạt động trong những lĩnh vực chịu tác động trực tiếp của CBAM đã có những nghiên cứu và sự chuẩn bị một cách nghiêm túc, đại bộ phận các DN hiểu chưa đầy đủ, có thể chưa chính xác và từ đó những phản ứng, những chuẩn bị có thể không có hiệu quả.
Theo đánh giá của bà Nguyễn Hồng Loan, Chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về đánh giá tác động của CBAM, nếu DN không có một cơ quan đầu mối hướng dẫn, có thể DN sẽ mất rất nhiều công sức để chuẩn bị nhưng vẫn có thể bị lãng phí, không hiệu quả và không đáp ứng yêu cầu của CBAM.
“Có những DN vội vã mua tín chỉ carbon để chuẩn bị việc ứng phó với cơ chế CBAM. Trong khi đó các yêu cầu, hướng dẫn của EU vẫn chưa rõ ràng và chưa có sự công nhận liên quan đến cơ chế giá carbon hay bù trừ tín chỉ. Việc chuẩn bị mang tính chất không có định hướng, không thông qua những kênh chính thống có thể sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực, thậm chí gây thiệt hại về mặt tài chính cho DN”, bà Loan cảnh báo.
Phản ứng kịp thời để có cam kết linh hoạt
Có thể thấy với cơ chế CBAM của EU không giống như quy định của Việt Nam, vì cơ chế này có những phạm trù mở rộng hơn về quy định cũng như phạm vi tính toán. Ông Hoàng Văn Tâm, Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững (Bộ Công Thương) cho rằng, những phạm trù mở rộng hơn này rất cần sự vào cuộc của cơ quan có chuyên môn, ngay cả trong quá trình đàm phán để thống nhất về phương pháp, cách tính và phạm, vi khi đó là các cơ quan chuyên môn sẽ có những tập hợp, những hướng dẫn và có những hướng dẫn chính thức cho các DN.
“Hiện nay những hướng dẫn về đo đạc, báo cáo và thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam đã tuân thủ khá tốt những quy định về kiểm soát phát thải khí nhà kính. Khi các DN thiết lập được hệ thống cơ sở dữ liệu để tính toán, kiểm soát được mức độ phát thải, sẽ đóng góp một phần rất quan trọng cho quá trình tuân thủ những quy định liên quan đến phát thải khí nhà kính, không riêng gì cơ chế CBAM”, ông Tâm khẳng định.
Một trong những nhiệm vụ Chính phủ giao cho Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đánh giá những khả năng mở rộng phạm vi áp dụng của CBAM, để từ đó có cơ chế và giải pháp ứng phó kịp thời. Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, hiện đã có 4 nhóm giải pháp liên quan đến vấn đề này.
Nhóm giải pháp đầu tiên liên quan đến vấn đề thể chế, khi xác định được một cơ quan đầu mối chính thức về CBAM là Bộ Công Thương, để tổng hợp tất cả các nguồn lực, thông tin kết nối với đối tác nước ngoài và trực tiếp đàm phán, trao đổi với nước ngoài để từ đó có những hướng dẫn cũng như hỗ trợ DN cụ thể. Cùng với đó là xây dựng quy định liên quan đến giá carbon, điều này thực sự quan trọng khi phải tính toán chi phí DN đã bỏ ra để xử lý phát thải carbon tại Việt Nam, từ đó có tính toán bù trừ trong chứng nhận tín chỉ carbon, cũng như tín chỉ CBAM.
Nhóm giải pháp thứ hai liên quan đến tuyên truyền, hướng dẫn cho DN một cách chính xác về cơ chế CBAM. Đồng thời tập huấn, phổ biến cho DN làm thế nào để tuân thủ các quy định về báo cáo, các chuẩn bị cho CBAM về giảm thải carbon. Nhóm thứ ba là tạo ra nguồn tài chính Xanh hỗ trợ cho DN chuyển đổi mô hình sản xuất Xanh, ít thải carbon và tìm kiếm, mở rộng thị trường cho DN.
“Nhóm cuối cùng là những ứng phó chính thức trên các diễn đàn đa phương. Việt Nam sẽ đấu tranh với EU để làm rõ sự tương thích của cơ chế CBAM với WTO và Hiệp định EVFTA. Bởi thực tế không chỉ Việt Nam, nhiều thành viên của WTO cũng đều quan ngại với cơ chế CBAM. Nội bộ chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng bên ngoài vẫn phải tiếp tục đấu tranh để có những các cam kết, những quy định linh hoạt tốt nhất cho DN Việt Nam”, ông Khanh cho biết.