Đại biểu lo khiếu kiện, bất ổn nếu cho phép thu hồi đất khi thỏa thuận đạt trên 75%
Chiều 1/12, thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2024, nhiều đại biểu băn khoăn về quy định cho phép thu hồi đất khi thỏa thuận đạt trên 75% diện tích đất và trên 75% số người sử dụng đất.
Làm rõ cơ sở quy định thu hồi đất khi tỷ lệ thỏa thuận đạt 75%
Tại phiên họp, các đại biểu nhất trí cao với sự cần thiết ban hành Nghị quyết nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo động lực phát triển đất nước và cải thiện môi trường đầu tư. Bên cạnh đó, các góp ý cụ thể xoay quanh tính khả thi, sự công bằng và nguy cơ phát sinh khiếu kiện.
Một trong những vấn đề nhiều đại biểu quan tâm là thu hồi đất theo cơ chế thỏa thuận. Dự thảo quy định cơ chế cho phép Nhà nước thu hồi phần đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư khi đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số người sử dụng đất.

Đại biểu Dương Khắc Mai (đoàn Lâm Đồng) phát biểu tại hội trường.
Các đại biểu Trần Văn Tiến (đoàn Phú Thọ), đại biểu Nguyễn Thị Thu Thủy (đoàn Gia Lai) và đại biểu Dương Khắc Mai (đoàn Lâm Đồng) đề nghị ban soạn thảo giải trình làm rõ cơ sở của tỉ lệ 75% này. Đại biểu Trần Văn Tiến nêu câu hỏi: Tại sao lại là 75% mà không phải là 60%?
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Thủy nhấn mạnh, cần làm rõ căn cứ xác định 75% nhằm đảm bảo ổn định xã hội, an ninh trật tự tại địa phương. “Tỷ lệ 25% hộ dân không đồng thuận là tỷ lệ tiềm ẩn những vấn đề gây bất ổn về xã hội, an ninh trật tự tại địa phương, khiếu nại, khiếu kiện hành chính” - đại biểu nêu.
Một số ý kiến đề nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng hoặc nâng tỉ lệ này lên 80% đến 85% để tăng độ an toàn pháp lý và sức thuyết phục xã hội. Hoặc chỉ nên áp dụng cơ chế này đối với các dự án trọng điểm quốc gia, dự án hạ tầng chiến lược, hoặc các dự án đã bồi thường kéo dài nhiều năm nhưng không xong, thay vì áp dụng đại trà.
Liên quan đến khoản 7 Điều 3 về cơ chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất, dự thảo đưa ra 2phương án.
Phương án 1, việc bồi thường hỗ trợ tái định cư đối với diện tích đất còn lại áp dụng như trường hợp Nhà nước thu hồi đất.
Phương án 2, nếu tổng chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tính trên một đơn vị diện tích thấp hơn mức trung bình của giá đất đã thỏa thuận trước đó, người bị thu hồi đất sẽ được nhận thêm số tiền còn thiếu. Phần chênh lệch này do nhà đầu tư chi trả và được tính vào tổng chi phí của dự án, không làm tăng gánh nặng cho ngân sách.
Các đại biểu Trần Chí Cường (đoàn Đà Nẵng), Đỗ Thị Việt Hà (đoàn Bắc Ninh), Nguyễn Thị Việt Nga (đoàn Hải Phòng), Đàng Thị Mỹ Hương (đoàn Khánh Hòa)… cho rằng, phương án 2 đảm bảo quyền lợi chính đáng của người có đất bị thu hồi.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, phương án 2 đảm bảo sự công bằng và hạn chế khiếu kiện, tránh tình trạng nhà đầu tư lợi dụng việc thỏa thuận chậm 25% diện tích còn lại để áp dụng giá đất của Nhà nước (thường thấp hơn giá thị trường) nhằm trục lợi. Tuy nhiên, đại biểu Trần Văn Tiến nêu quan điểm, cả 2 phương án đưa ra đều chưa đảm bảo khả thi.
Cần có khung trần cho hệ số K, tránh gây sốc
Dự thảo cũng quy định nội dung chuyển từ cơ chế xác định giá đất cụ thể sang áp dụng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất (hệ số K). Đây được coi là giải pháp quan trọng để rút ngắn thủ tục hành chính, giảm chi phí và tăng tính minh bạch.
Tuy nhiên, đại biểu Cầm Hà Chung (đoàn Phú Thọ) cảnh báo, cơ chế này tiềm ẩn rủi ro nếu việc xây dựng bảng giá đất và hệ số K không dựa trên dữ liệu đầy đủ, minh bạch. “Khi bảng giá đất mới của nhiều địa phương tăng cao, nếu hệ số K tiếp tục được áp dụng ở mức lớn, có thể tạo ra cú sốc tài chính cho người dân và doanh nghiệp” - đại biểu nêu rõ.

Đại biểu Cầm Hà Chung (đoàn Phú Thọ) phát biểu.
Do đó, đại biểu kiến nghị tách bạch rõ ràng giữa giá gốc trong bảng giá đất và giá điều chỉnh thông qua hệ số K. Đồng thời, quy định khung trần đối với hệ số K để tránh chênh lệch lớn giữa các địa phương, gây tâm lý bất an cho người dân. Đại biểu cũng đề nghị bắt buộc phải công khai dữ liệu đầu vào, phương pháp xây dựng bảng giá, hồ sơ tư vấn để xã hội giám sát.
Đại biểu Dương Khắc Mai (đoàn Lâm Đồng) cũng đồng tình với chủ trương dùng bảng giá đất và hệ số K để đơn giản hóa, nhưng đề xuất bổ sung quy định trường hợp vẫn phải định giá đất cụ thể đối với các dự án trên 100 ha hoặc dự án ở khu vực chưa có bảng giá đất phù hợp, hoặc khi giá đất biến động đột biến.
Phát biểu giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, về việc thu hồi đất khi đạt tỷ lệ thỏa thuận 75% gây nhiều tranh luận, cơ quan soạn thảo xác định đây là trường hợp đặc biệt cần được cân nhắc, đánh giá thận trọng trên các khía cạnh kinh tế, xã hội, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu giải trình.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh, dự thảo Nghị quyết đã giao HĐND cấp tỉnh - là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, xem xét quyết định việc có hay không thu hồi phần diện tích đất còn lại khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và trên 75% số lượng người sử dụng đất.
Về phương án bồi thường đối với phần đất còn lại, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu để lựa chọn phương án báo cáo Quốc hội.
Đối với cách tính giá đất, Bộ trưởng khẳng định, việc áp dụng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất (hệ số K) là giải pháp để minh bạch hóa và đẩy nhanh tiến độ định giá, khắc phục những tồn tại vướng mắc hiện nay. Cơ chế này nhằm đảm bảo việc Nhà nước quyết định giá đất theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể việc xây dựng bảng giá, hệ số điều chỉnh giá đất, việc tính chi phí hạ tầng được trừ trong nghị định để đảm bảo công bằng và dễ thực hiện. Ngoài ra, dự thảo Nghị quyết cũng đã xử lý những trường hợp xác định giá đất còn dở dang tại thời điểm Nghị quyết có hiệu lực thi hành.
Quan tâm đến nội dung tháo gỡ vướng mắc đối với hợp đồng BT và dự án chuyển tiếp, đại biểu Phan Đức Hiếu (đoàn Hưng Yên) góp ý về việc xác định giá đất đối với đất để thanh toán cho các hợp đồng BT.
Theo đại biểu, Luật Đất đai quy định tính giá đất tại thời điểm quyết định giao đất cho dự án BT là hợp lý nếu mọi việc diễn ra đúng như dự kiến. Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều trường hợp nhà đầu tư đã hoàn thành nghĩa vụ, bàn giao công trình nhiều năm, nhưng chưa nhận được đất thanh toán. Khi đó, nếu áp dụng giá đất tại thời điểm giao đất sau nhiều năm, thì không phù hợp với nguyên tắc “ngang bằng, ngang giá” trong quan hệ hợp đồng, bởi giá phải được tính tại cùng thời điểm thì mới bảo đảm công bằng.
Do đó, đại biểu mong muốn Nghị quyết sẽ xử lý được vấn đề này theo hướng quy định giá đất thanh toán cho hợp đồng BT được xác định tại mốc tối thiểu là thời điểm bàn giao công trình, để tránh thua thiệt cho nhà đầu tư, đảm bảo nguyên tắc ngang bằng và công bằng trong quan hệ hợp đồng.












