Đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường với lộ trình phù hợp để tránh 'khó chồng khó'

Trong bối cảnh Quốc hội đang xem xét sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), đề xuất bổ sung nước giải khát có đường vào danh mục hàng hóa chịu thuế với lý do bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là phòng chống tình trạng thừa cân béo phì, đang tạo ra những tranh luận trái chiều.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Mặc dù mục tiêu của chính sách là hướng tới lợi ích sức khỏe, song nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia và doanh nghiệp bày tỏ sự lo ngại về tính hiệu quả, công bằng cũng như những tác động tiêu cực tới nền kinh tế, người tiêu dùng và môi trường đầu tư trong nước.

Theo dự thảo mới nhất, các loại nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam với hàm lượng đường trên 5g/100ml sẽ chịu mức thuế TTĐB là 8% từ năm 2027 và tăng lên 10% từ năm 2028. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng chính sách này còn thiếu cơ sở khoa học vững chắc cũng như các đánh giá tác động toàn diện.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) đặt vấn đề rằng việc tăng thuế có thể giúp tăng thu ngân sách ngắn hạn nhưng sẽ gây ra hiệu ứng ngược về lâu dài. Người tiêu dùng – nhóm cuối cùng chịu chi phí – sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Đại biểu Dương Khắc Mai (Đắk Nông) cũng cho rằng thuế suất cao sẽ ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, từ nông dân trồng mía đến công nhân sản xuất và các doanh nghiệp kinh doanh liên quan.

Các số liệu thực tiễn cho thấy mức tiêu thụ nước giải khát có đường tại Việt Nam không ở mức cao so với thế giới. Năm 2020, bình quân đầu người tại Việt Nam tiêu thụ khoảng 34 lít/năm, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của châu Âu (243,9 lít/người/năm) hay Nhật Bản (169,28 lít/người/năm). Trong khi đó, theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ béo phì ở Việt Nam tuy có xu hướng gia tăng nhưng vẫn thuộc nhóm thấp trong khu vực. Việt Nam đứng thứ 200 trên thế giới về tỷ lệ thừa cân béo phì ở người lớn và thứ 137 đối với trẻ em. Nhiều địa phương, đặc biệt là vùng núi, tỷ lệ suy dinh dưỡng và thấp còi vẫn ở mức cao.

Các khảo sát của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cũng cho thấy không có mối tương quan trực tiếp giữa mức độ tiêu thụ nước giải khát có đường và tỷ lệ thừa cân béo phì. Thay vào đó, các yếu tố như lối sống tĩnh tại, thiếu vận động, thói quen sinh hoạt, dinh dưỡng mất cân bằng mới là nguyên nhân chính. Trẻ em thành thị có tỷ lệ béo phì cao hơn trẻ em nông thôn nhưng lại tiêu thụ nước ngọt đóng chai ít hơn. Một số nghiên cứu quốc tế cũng chỉ ra rằng việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường ở các quốc gia như Chile, Mexico, Bỉ không làm giảm tỷ lệ béo phì mà thậm chí còn có xu hướng tăng.

Từ góc độ kinh tế, việc áp thuế này có thể ảnh hưởng tới nỗ lực phục hồi và tăng trưởng trong giai đoạn hậu đại dịch. Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025 và duy trì mức hai con số trong giai đoạn 2026-2030. Trong khi đó, cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là ngành nước giải khát – vốn đang đối mặt với chi phí đầu vào cao, sức mua yếu và rào cản thương mại – sẽ phải gồng mình thêm nếu chính sách thuế mới được ban hành. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) ước tính nếu áp thuế 10% sẽ khiến GDP giảm 0,448%, tương đương hơn 42.000 tỷ đồng, và ảnh hưởng tiêu cực đến hơn 20 ngành hàng liên quan.

PGS.TS Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam nhấn mạnh rằng ngành này hiện đóng góp gần 3% tổng thu ngân sách, tạo việc làm cho hàng triệu lao động. Trong bối cảnh khó khăn hiện tại, việc tăng thuế sẽ làm giảm sức mua, sụt giảm doanh thu, ảnh hưởng đến việc làm và đầu tư trong nước lẫn nước ngoài.

Không chỉ vậy, việc chỉ đánh thuế vào nước giải khát đóng chai/lon có đường mà bỏ qua các loại đồ uống pha chế tại chỗ như trà sữa, cà phê sữa, nước mía – vốn chứa lượng đường tương đương hoặc cao hơn – tạo ra sự bất bình đẳng trong thực thi chính sách. Đây cũng là ý kiến của đại biểu Quốc hội Lê Thị Song An (Long An) khi cho rằng việc này sẽ dẫn đến hành vi tiêu dùng thay thế, khiến người dân chuyển sang sử dụng các loại đồ uống chế biến tại chỗ – vốn khó kiểm soát về vệ sinh an toàn thực phẩm và gần như không thể đánh thuế.

Các chuyên gia như TS Cấn Văn Lực, TS Võ Trí Thành, GS.TS Hoàng Văn Cường đều cho rằng, trước khi áp thuế đối với nhóm hàng hóa mới như nước giải khát có đường, cần có nghiên cứu sâu sắc và toàn diện, dựa trên các bằng chứng khoa học, thực tiễn quốc tế và điều kiện đặc thù của Việt Nam. Chính sách thuế không nên là biện pháp đơn lẻ để xử lý một vấn đề có nguyên nhân đa chiều như béo phì.

Nhiều đại biểu Quốc hội đề xuất cần có lộ trình hợp lý nếu vẫn quyết định đánh thuế, như bắt đầu từ 5% vào năm 2028, tăng dần lên 8% vào 2029 và 10% từ năm 2030. Lộ trình này giúp các doanh nghiệp có thời gian thích nghi, điều chỉnh sản phẩm theo hướng lành mạnh, đổi mới công thức, giảm đường và phát triển các sản phẩm thay thế, đồng thời giảm thiểu cú sốc về giá cả đối với người tiêu dùng.

Về phía Chính phủ, trong khi đang nỗ lực triển khai hàng loạt chính sách giãn, giảm thuế để “khoan sức dân”, thúc đẩy sản xuất kinh doanh như giảm 2% thuế giá trị gia tăng, giảm 50% thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu, thì việc bổ sung mặt hàng mới vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt có thể tạo ra mâu thuẫn chính sách và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư trong nước.

Không phủ nhận rằng kiểm soát thừa cân béo phì là một mục tiêu chính đáng. Tuy nhiên, điều này cần dựa trên tổng thể chính sách về y tế, giáo dục dinh dưỡng, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và khuyến khích vận động thể chất – thay vì chỉ trông đợi vào một sắc thuế mang tính hành chính. Như lời đại biểu Quốc hội Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) ví von, “bốc thuốc phải đúng bệnh” – nếu không sẽ vừa không đạt được hiệu quả như mong muốn, vừa gây ra những hệ lụy về kinh tế - xã hội.

Bảo Long

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/de-xuat-ap-thue-tieu-thu-dac-biet-doi-voi-nuoc-giai-khat-co-duong-voi-lo-trinh-phu-hop-de-tranh-kho-chong-kho-421457.html