Di sản văn hóa: Cội nguồn 'bệ đỡ' cho hành trình phát triển thương hiệu quốc gia

Một quốc gia muốn phát triển bền vững và neo được hình ảnh sâu sắc trong tâm trí bạn bè quốc tế, cần gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa quý giá từ quá khứ, đồng thời sáng tạo không ngừng...

Trên chặng đường phát triển đất nước kể từ mốc son độc lập ngày 2/9/1945, ngoài việc bảo tồn và phát huy các giá trị từ quá khứ, Việt Nam đã không ngừng sáng tạo, chủ động linh hoạt để vừa khai thác được tiềm năng kinh tế, vừa gìn giữ được cội nguồn lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của di sản.

Trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu, với khát vọng biến các di sản văn hóa, di sản thiên nhiên… thành tài sản, Việt Nam đã và đang kết tinh bao “vốn liếng” mà cha ông để lại thành giá trị mang tính cốt lõi để từ đó tạo ra sản phẩm mới, giúp cho các ngành “phái sinh” như du lịch, thời trang… có cơ sở vững chắc cộng hưởng thành hòa ca quảng bá thương hiệu quốc gia.

Phát huy sức mạnh từ cội rễ di sản

Mỗi di sản Việt Nam được UNESCO công nhận không chỉ là hiện thân của những giá trị lịch sử, nghệ thuật mà còn “kể” biết bao câu chuyện về bản sắc, ký ức và tinh thần nhân loại. Đó cũng chính là những dấu ấn văn hóa mang đậm tinh thần Việt.

Chính phủ luôn khẳng định văn hóa không chỉ là bản sắc dân tộc mà còn là nguồn lực chiến lược trong phát triển quốc gia. Trên hành trình đó, nhiều nước trên thế giới đã chứng minh rằng để nâng tầm hình ảnh dân tộc, củng cố vị thế quốc tế và tạo ra giá trị kinh tế bền vững thì “sức mạnh mềm” văn hóa chính là con đường hiệu quả. Cũng vì thế, Việt Nam đã chọn khẳng định và kiến tạo “sức mạnh mềm” một cách bền vững bằng chính cội rễ di sản, văn hóa của mình.

 Festival Huế là một sự kiện văn hóa lớn được tổ chức hai năm một lần tại Huế, vào các năm chẵn. Sự kiện cũng thu hút sự tham gia của các đoàn nghệ thuật quốc tế. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Festival Huế là một sự kiện văn hóa lớn được tổ chức hai năm một lần tại Huế, vào các năm chẵn. Sự kiện cũng thu hút sự tham gia của các đoàn nghệ thuật quốc tế. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Đến nay, chúng ta đã có 9 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên và Văn hóa Thế giới. Trong đó, có 5 Di sản Văn hóa thế giới (Quần thể di tích Cố đô Huế, Khu di tích Mỹ Sơn, Đô thị cổ Hội An, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ); 2 Di sản Thiên nhiên thế giới (Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quần thể Vịnh Hạ Long-Quần đảo Cát Bà); và 1 Di sản Hỗn hợp (Quần thể danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc), đây là Di sản Hỗn hợp duy nhất tại Việt Nam và Đông Nam Á, và là một trong số 40 Di sản Hỗn hợp được UNESCO công nhận.

Đặc biệt, Việt Nam tự hào có 16 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã được UNESCO vinh danh bao gồm: Nhã nhạc Cung đình Huế (2003); Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (2005); Dân ca Quan họ Bắc Ninh (2009); Nghệ thuật Ca trù (2009); Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (2010); Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (2012); Nghệ thuật Đờn ca Tài tử Nam Bộ (2013); Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh (2014); Nghi lễ và Trò chơi kéo co (2015); Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt (2016); Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ (2017); Nghệ thuật Hát Xoan Phú Thọ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái (2019); Nghệ thuật Xòe Thái (2021); Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm 2022); Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (2024). Cùng với đó là 9 Di sản Văn hóa Tư liệu, 11 Khu Dự trữ Sinh quyển TG, 3 Công viên Địa chất Toàn cầu, 9 Khu Ramma.

Hệ thống di sản phong phú đó đã góp phần nâng tầm hình ảnh quốc gia, quảng bá điểm đến theo cách “hữu xạ tự nhiên hương,” qua đó giúp Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới.

Khai thác giá trị di sản được xác định là hướng đi phát triển bền vững của ngành du lịch trong tương lai. Thực tiễn cho thấy ở nhiều quốc gia, nhờ con đường du lịch mà giá trị di sản văn hóa, di sản thiên nhiên đã trở thành “tài sản” tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, từng bước làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương nơi có di sản, mang đến cho cộng đồng và địa phương những lợi ích thiết thực, vững chắc.

 Phường rối nước Đào Thục, Đông Anh, Hà Nội vẫn được bảo tồn và trở thành sản phẩm thu hút khách quốc tế đồng thời tạo sinh kế cho người dân địa phương và các nghệ nhân. (Ảnh: Vương Công Nam/Vietnam+)

Phường rối nước Đào Thục, Đông Anh, Hà Nội vẫn được bảo tồn và trở thành sản phẩm thu hút khách quốc tế đồng thời tạo sinh kế cho người dân địa phương và các nghệ nhân. (Ảnh: Vương Công Nam/Vietnam+)

Điều đáng nói, các di sản văn hóa giờ đây không còn xa lạ mà đã “bừng tỉnh” để trở thành một phần của hơi thở đời sống đương đại, gần gũi với người dân. Đặc biệt, giới trẻ đã sớm được tiếp xúc, tìm hiểu về lịch sử, di sản để có ý thức tự hào và gìn giữ văn hóa truyền thống.

“Kinh tế truyền cảm hứng”: Hài hòa sinh kế thế nào?

Sau 15 năm là Di sản Văn hóa thế giới, nay Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long-Hà Nội đã phục dựng được hàng loạt nghi lễ cung đình tại Hoàng thành Thăng Long như: Lễ Tiến Xuân ngưu (dâng trâu mùa Xuân), Lễ Tiến lịch, Lễ Thượng tiêu, Lễ ban quạt (thuộc nghi lễ Tết Đoan ngọ), Lễ đổi gác... Tất cả hoạt động phục dựng đều được xã hội hóa.

Khi cộng đồng được tham gia vào câu chuyện bảo tồn, khôi phục các nghi lễ, Hoàng thành Thăng Long đã trở nên gần gũi với giới trẻ Thủ đô, trở thành điểm học ngoại khóa thân quen của hàng chục nghìn lượt học sinh mỗi năm.

Trong khi đó, với trường hợp Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Trị), di sản thiên nhiên này lại gặp thách thức lớn trong quá trình bảo tồn. Bởi đây còn là không gian ngụ cư của hàng chục nghìn người thuộc các dân tộc Kinh, Chứt, Bru-Vân Kiều.

 Du khách khám phá hệ thống hang Sơn Đoòng, một di sản thiên nhiên thế giới nổi tiếng của Việt Nam. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Du khách khám phá hệ thống hang Sơn Đoòng, một di sản thiên nhiên thế giới nổi tiếng của Việt Nam. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Đáng nói là, đồng bào Chứt, Bru-Vân Kiều chủ yếu sống dựa vào khai thác tự nhiên như săn bắt, đánh cá… Song, nhờ sự chung tay từ Trung ương đến các tổ chức quốc tế, những năm qua địa phương đã từng bước giải quyết được bài toán sinh kế - bảo tồn.

Năm 2024, triển khai chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, Vườn đã cung cấp, hỗ trợ người dân cây trồng, con giống, hỗ trợ xây dựng mô hình sinh kế giúp cho hàng nghìn lao động địa phương được tham gia các hoạt động dịch vụ du lịch như chụp ảnh, bán hàng lưu niệm, nhà hàng, đưa đón khách tham quan…

Rõ ràng hoạt động du lịch lấy di sản làm trụ cột đã mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội thiết thực, thúc đẩy khôi phục nhiều lễ hội/nghề thủ công truyền thống, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo.

“Việc phát huy các giá trị di sản nhằm chia sẻ lợi ích, đồng thời giảm thiểu tác động lên di sản thế giới được chính quyền tỉnh, Ban quản lý Vườn chú trọng,” Phó Giám đốc Ban quản lý Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng Đinh Huy Trí khẳng định.

 Người H'Mông ở Sơn La vẫn bảo tồn và phát triển được nghề dệt lanh truyền thống. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam+)

Người H'Mông ở Sơn La vẫn bảo tồn và phát triển được nghề dệt lanh truyền thống. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam+)

Có thể thấy, sức mạnh nội sinh từ di sản đã và đang góp phần thay đổi mạnh mẽ diện mạo nhận thức, chất lượng đời sống cộng đồng và thay đổi cả diện mạo điểm đến. Thực tế vẫn đặt ra nhiều thách thức. Dù hệ thống luật pháp ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt Luật Di sản văn hóa 2024 được sửa đổi theo hướng đáp ứng yêu cầu trong nước và tích hợp các điều khoản của Công ước quốc tế về di sản, thì nguy cơ lớn nhất vẫn đang hiển lộ từ việc phát triển kinh tế gây xâm hại tới công tác bảo tồn. Vịnh Hạ Long là trường hợp di sản từng bị các công trình xây dựng xâm phạm như thế.

Vậy làm sao để vừa bảo tồn di sản thế giới một cách bền vững vừa hài hòa lợi ích các bên, trong đó, vấn đề lợi ích không chỉ là hỗ trợ sinh kế mà còn làm thay đổi nhận thức của mỗi “chủ nhân di sản” và tìm ra các mô hình vận hành hợp lý? Theo ý kiến từ các chuyên gia, hợp tác công-tư để bảo tồn và phát huy giá trị di sản ra sao là câu chuyện cần bàn thảo kỹ lưỡng.

Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Phó Giáo sư Đặng Văn Bài đề xuất: “Cần xây dựng các chương trình giáo dục di sản trong trường học, cộng đồng; sử dụng phương tiện truyền thông góp phần làm thay đổi nhận thức người dân.”

Vị chuyên gia cho rằng mặc dù Đảng, Nhà nước đã khẳng định kinh tế tư nhân là một trong những động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nhưng trong lĩnh vực bảo tồn di sản, mô hình kinh tế tư nhân hay hợp tác công-tư còn hạn chế khiến di sản văn hóa chưa được phát huy giá trị đầy đủ.

 Quần thể di sản Vịnh Hạ Long-Cát Bà của Việt Nam là điểm đến nổi tiếng toàn cầu. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Quần thể di sản Vịnh Hạ Long-Cát Bà của Việt Nam là điểm đến nổi tiếng toàn cầu. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Theo ông, phát triển du lịch văn hóa phải xuất phát từ vốn di sản đã được kết tinh thành giá trị cốt lõi, từ đó tạo ra các sản phẩm mới có giá trị phái sinh, giá trị gia tăng cho xã hội. Tuy nhiên, di sản văn hóa vốn nhạy cảm và dễ bị tổn thương, vậy mới có cảnh không ít di sản “biến dạng” vì mục tiêu phát triển du lịch.

Vì thế, các chuyên gia lưu ý muốn bảo tồn và khai thác di sản bền vững cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định, chú trọng yếu tố bản quyền, chia sẻ lợi ích, tạo được chuỗi sản phẩm du lịch từ giá trị toàn diện của di sản…

Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam, ông Vũ Thế Bình khẳng định, sản phẩm chính là yếu tố cốt lõi tạo nên sức cạnh tranh cho ngành du lịch. Vì thế, phải xây dựng được những sản phẩm khác biệt, độc đáo dựa trên khai thác các tài nguyên văn hóa.

Trong khi đó, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh rằng ngày nay du khách không chỉ có nhu cầu tham quan, mà còn mong muốn có được nhiều trải nghiệm, cảm xúc, nên du lịch không những cần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, mà hơn hết là phải trở thành ngành kinh tế “truyền cảm hứng.”

 Các di tích lịch sử, di sản trên địa bàn Hà Nội ngày càng thu hút đông đảo du khách. (Ảnh: Vương Công Nam/Vietnam+)

Các di tích lịch sử, di sản trên địa bàn Hà Nội ngày càng thu hút đông đảo du khách. (Ảnh: Vương Công Nam/Vietnam+)

Thương hiệu bền vững từ cội nguồn bản sắc

Trải qua chặng đường hơn 4.000 năm lịch sử, bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Việt Nam chủ trương phát huy nền văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc; thúc đẩy phát triển các thiết chế văn hóa, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí; quốc tế hóa nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc ra thế giới…

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hoài Sơn đánh giá việc triển khai Đề án quốc tế hóa bản sắc văn hóa dân tộc và dân tộc hóa tinh hoa văn hóa thế giới là đúng lúc, thiết thực; cho thấy văn hóa đã được coi là nguồn lực mềm cốt lõi, một ngành kinh tế dịch vụ đặc thù, và là trụ cột phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới. Lần đầu tiên, tư duy hội nhập văn hóa được tiếp cận hai chiều, vừa đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách chọn lọc để làm giàu bản sắc dân tộc.

Với đề án này, theo ông Bùi Hoài Sơn, nhiều mục tiêu rõ ràng và cơ chế đột phá đã được cụ thể hóa phù hợp với xu thế quốc tế, đồng thời phù hợp với các mục tiêu phát triển 2030-2045 của đất nước: Xây dựng hệ sinh thái văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, tạo môi trường sáng tạo thuận lợi cho người làm văn hóa sống được bằng nghề, và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới một cách có chiến lược.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực quảng bá văn hóa quốc gia, không chỉ liên tục được UNESCO ghi danh các di sản, mà hàng loạt sự kiện Ngày Việt Nam ở nước ngoài, các festival phim, tuần lễ văn hóa, quảng bá ẩm thực, thời trang, nghệ thuật truyền thống cũng thường xuyên được tổ chức...

 Áo dài truyền thống đã trở thành một trong những giá trị cần được bảo tồn và phát huy của Việt Nam. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam+)

Áo dài truyền thống đã trở thành một trong những giá trị cần được bảo tồn và phát huy của Việt Nam. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam+)

Trong bức tranh toàn cảnh nền công nghiệp văn hóa, ngành thời trang được đánh giá là điểm sáng với làn sóng các nhà thiết kế trẻ chọn lối đi đề cao bản sắc cội nguồn. Đáng quý là, họ để lại trong lòng giới mộ điệu những dấu ấn đậm nét lấy cảm hứng từ nguyên liệu bản địa, và “kể” những câu chuyện về văn hóa Việt Nam truyền thống thông qua ngôn ngữ tạo hình. Thậm chí, nhiều nhà thiết kế chọn cách hợp tác với nghệ nhân để bảo tồn nghề truyền thống và gắn kết cộng đồng.

Nếu những thập niên trước, thời trang Việt trong mắt bạn bè quốc tế chỉ đơn giản là hiện thân của áo dài, áo tứ thân, áo bà ba cổ điển, “chạm” tới sàn runway quốc tế chủ yếu qua con đường giao lưu văn hóa, thì nay nhiều thương hiệu, gương mặt tài năng của Việt Nam đã tự khẳng định mình để góp mặt tại các sự kiện văn hóa, giải trí lớn của thế giới bằng sức lan tỏa của tài năng, bằng tư duy sáng tạo…

Trên hành trình ấy, mới đây, tạp chí thời trang Vogue đã giới thiệu bộ sưu tập Thu Đông năm 2025 với các thiết kế làm từ “vật báu” lụa Lãnh Mỹ A (làng nghề Tân Châu, An Giang) của nhà thiết kế Công Trí. Đây cũng là gương mặt đã góp phần đưa thời trang Việt Nam tỏa sáng và ghi dấu ấn đậm nét trên bản đồ thời trang quốc tế, trở thành lựa chọn của các ngôi sao hạng A trên thế giới.

Đáng quý là, những năm gần đây nhiều nhà thiết kế Việt Nam đã chọn đồng hành cùng chất liệu lụa tơ tằm, sợi gai, vải lanh, tơ sen... là nguyên liệu đậm dấu ấn bản địa. Sàn diễn ở London (Anh) cũng là nơi các thương hiệu như La Phạm, Kilomet109… nâng tầm thổ cẩm dệt tay của người H’Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc lên nấc thang thời trang cao cấp.

 Vải lanh, thổ cẩm được chế tác từ chiếc váy của bà con dân tộc thiểu số được tôn vinh trên sàn diễn thời trang. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Vải lanh, thổ cẩm được chế tác từ chiếc váy của bà con dân tộc thiểu số được tôn vinh trên sàn diễn thời trang. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Trên sàn runway trong nước, Vũ Việt Hà cũng vừa tái hiện lễ hội đua ngựa Bắc Hà (Lào Cai) bằng thổ cẩm và kỹ thuật thêu tay trong bộ sưu tập “Mã đáo.” Cao Minh Tiến tôn vinh dân ca quan họ, tín ngưỡng thờ Mẫu qua trang phục đậm chất Kinh Bắc có tên “Thoải mộng.” Những trang phục đặc biệt do anh thiết kế cho ca sỹ Hòa Minzy trong MV “Bắc Bling” đã góp phần lan tỏa nét đẹp văn hóa vùng, miền của Việt Nam cùng hiệu ứng từ MV.

Chọn lối đi thời trang bền vững, có thể nói các nhà tạo mẫu trẻ đã góp phần giúp làm “sống dậy” những làng nghề truyền thống như vải lanh Lùng Tám (Tuyên Quang), dệt đũi Nam Cao (Hưng Yên), thêu tay Quất Động (Hà Nội), tơ lụa Mã Châu (Đà Nẵng)... Quan trọng hơn là các hoa văn cổ, cách nhuộm cổ, cùng nhiều kỹ thuật thêu, dệt tưởng chừng thất truyền hay có nguy cơ mai một đã được phục dựng, bảo tồn và phát huy.

 Nhà thiết kế trẻ Phan Đăng Hoàng.

Nhà thiết kế trẻ Phan Đăng Hoàng.

Đáng chú ý, trên hành trình quảng bá, lan tỏa thời trang Việt Nam còn xuất hiện thế hệ GenZ mới đầy tài năng với tư duy, nhận thức sâu sắc về bảo tồn các giá trị cổ truyền. Như nhà thiết kế trẻ Phan Đăng Hoàng (sinh năm 2000) đã chọn lấy cảm hứng sáng tạo từ các tác phẩm của danh họa Nguyễn Phan Chánh và gốm sứ, giấy dó Việt để giới thiệu tới công chúng mộ điệu của Tạp chí Vogue Italy, Tuần lễ thời trang Milan... qua các bộ sưu tập vô cùng công phu.

Những đóng góp và nỗ lực của nhà tạo mẫu trẻ đã giúp cậu có tên trong danh sách 30 Under 30 Asia (những người dưới 30 tuổi có tầm ảnh hưởng nhất châu Á) bảng “Nghệ thuật” của Tạp chí Forbes năm 2024.

Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử Vietnamplus, nhà thiết kế GenZ cho hay: “Là người Việt Nam, tôi cảm thấy vô cùng tự hào về cội nguồn dân tộc. Phong cách thiết kế của tôi chịu ảnh hưởng từ những chất liệu bản sắc văn hóa Việt Nam, điều đó trở thành nét đặc trưng riêng trong các sản phẩm. Có lẽ, chính sự kết hợp này khiến mọi người có thể nhớ đến các thiết kế của tôi như một dấu ấn cá nhân, một ‘DNA’ trong phong cách rất rõ nét. Khi bước ra quốc tế, bằng sản phẩm của mình, tôi muốn mọi người sẽ luôn nhận ra tôi là một nhà thiết kế đến từ Việt Nam.”

Rõ ràng, một quốc gia muốn phát triển bền vững và neo được hình ảnh sâu sắc trong tâm trí bạn bè quốc tế, không thể không gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa quý giá từ quá khứ, đồng thời sáng tạo không ngừng, để vừa khai thác được tiềm năng kinh tế từ vốn cổ vừa bảo tồn, quảng bá niềm tự hào, tự tôn dân tộc với năm châu./.

 Các thiết kế của Phan Đăng Hoàng trong bộ sưu tập "Ceramics" lấy cảm hứng từ gốm sứ và tranh lụa của danh họa Nguyễn Phan Chánh (trái). Bộ sưu tập "ZigZag" lấy cảm hứng từ giấy dó được ra mắt tại Milan Fashion Week 2025 (phải). (Ảnh: NVCC)

Các thiết kế của Phan Đăng Hoàng trong bộ sưu tập "Ceramics" lấy cảm hứng từ gốm sứ và tranh lụa của danh họa Nguyễn Phan Chánh (trái). Bộ sưu tập "ZigZag" lấy cảm hứng từ giấy dó được ra mắt tại Milan Fashion Week 2025 (phải). (Ảnh: NVCC)

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/di-san-van-hoa-coi-nguon-be-do-cho-hanh-trinh-phat-trien-thuong-hieu-quoc-gia-post1056730.vnp