Đông Nam Á đang đối mặt với khủng hoảng lực lượng lao động
Theo ngân hàng phát triển châu Á (ADB), thanh niên và phụ nữ ở Đông Nam Á là những đối tượng đang phải gánh chịu tình trạng mất việc làm trong thời kỳ đại dịch COVID-19.
Sáng 16/12, ADB đã công bố báo cáo “Một cuộc khủng hoảng hoàn toàn khác - COVID-19 và các thị trường lao động ở Đông Nam Á”.
Trong báo cáo này, ADB cho rằng, tại các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam, nhóm người trẻ từ 15 - 24 tuổi chỉ chiếm khoảng 15% lực lượng lao động, thế nhưng đây là nhóm tuổi có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất vào giai đoạn cao điểm của dịch bệnh vào năm 2020.
Thanh niên và phụ nữ ở Đông Nam Á là những đối tượng đang phải gánh chịu tình trạng mất việc làm trong thời kỳ đại dịch COVID-19. (Ảnh: minh họa)
Tại Thái Lan, trong quý II/2020, phụ nữ chiếm tới 60% tổng số việc làm bị mất, bao gồm 90% trong lĩnh vực sản xuất chế tạo.
Theo ADB, đại dịch cũng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng ngày càng gia tăng giữa lao động có tay nghề và lao động phổ thông, gây tổn hại tới lao động kỹ năng thấp cũng như lao động có trình độ trung bình. Lao động phi chính thức, lao động tự do, lao động tạm thời và lao động nhập cư là những nhóm dễ bị tổn thương nhất.
Tổng Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á của ADB, ông Ramesh Subramaniam, nhận định: Bất chấp những nỗ lực ứng phó chưa từng có của chính phủ, COVID-19 đã làm lộ ra những lỗ hổng đáng kể về bảo trợ xã hội liên quan đến tình trạng lao động phi chính thức cao và dai dẳng trong toàn khu vực.
Nó cũng tạo cơ hội cho các quốc gia khắc phục những lỗ hổng này và mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những người hưởng lợi mới và các nhóm bị loại trừ.
“Khi quá trình phục hồi diễn ra, trọng tâm của chính sách tài khóa có thể chuyển mạnh hơn từ cứu trợ sang kích thích, và từ kích thích sang đầu tư cơ cấu để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và bao trùm”, đại diện ADB nói.
Cũng theo ADB, khu vực Đông Nam Á, đã bị ảnh hưởng nặng nề trong quý II/2020, khi các biện pháp ngăn chặn của chính phủ ở mức nghiêm ngặt nhất.
Trong thời gian đó, cứ năm công nhân ở Philippines thì có một người bị mất việc làm hoặc rời bỏ lực lượng lao động. Khoảng 90% số lao động Việt Nam bị mất việc làm đã ngừng tìm việc làm mới, con số này ở Indonesia là 60% và Malaysia là 40%.
Trưởng Ban Phát triển con người và Xã hội khu vực Đông Nam Á của ADB, bà Ayako Inagaki chia sẻ: Đại dịch cùng nguy cơ tăng trưởng kinh tế trì trệ và bất bình đẳng gia tăng đã nhấn mạnh sự cần thiết của chính sách tài khóa vượt ra ngoài vai trò phản chu kỳ của nó thông qua tăng cường đầu tư cho bảo trợ xã hội và cơ sở hạ tầng cho hoạt động này.
“Các quốc gia cần đẩy mạnh đầu tư cho vốn con người và huy động các nguồn lực trong nước để xây dựng những chương trình bảo trợ xã hội bền vững, bao trùm và tăng cường đóng góp cho bảo hiểm xã hội”, bà Ayako Inagaki khẳng định.
Khác với các cuộc khủng hoảng trước đây, sự gián đoạn chuỗi cung ứng, sụt giảm nhu cầu trong nước và quốc tế, hạn chế di chuyển và đi lại, và khả năng làm việc từ xa hạn chế đã dẫn đến tình trạng cắt giảm lượng lớn việc làm trong nông nghiệp, bán buôn và bán lẻ - những lĩnh vực thường thu hút lao động bị dịch chuyển trong các cuộc khủng hoảng.
Sản xuất chiếm một tỷ trọng lớn trong số việc làm ròng bị mất đi ở nhiều nước Đông Nam Á. Các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa bị ảnh hưởng lớn hơn từ tình trạng cắt giảm việc làm, do họ có thanh khoản kém hơn hoặc ít khả năng tiếp cận hỗ trợ của chính phủ hơn.
Lao động trẻ nhiều khả năng bị mất việc hơn, chủ yếu bởi vì họ chiếm ưu thế trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề như khách sạn và nhà hàng, cũng như thương mại bán buôn và bán lẻ.
Phụ nữ, ở tất cả các quốc gia mà báo cáo xem xét và ở tất cả các nhóm tuổi, có nhiều khả năng rời bỏ lực lượng lao động, chủ yếu để chăm sóc gia đình trong thời gian diễn ra đại dịch.
Phụ nữ gia nhập lại lực lượng lao động vào đầu năm 2021 phần lớn là lao động tự do hoặc trong khu vực phi chính thức, điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển nghề nghiệp của họ về lâu dài.
Lao động phi chính thức, những người chiếm tỉ trọng lớn trong số lao động nghèo và cận nghèo của khu vực, đặc biệt dễ bị tổn thương trước khủng hoảng do họ bị hạn chế về bảo đảm việc làm và bảo trợ xã hội.
Mười triệu lao động nhập cư của khu vực cũng bị ảnh hưởng bởi những hạn chế trong di chuyển và đi lại, vì họ thường không có sự bảo đảm về việc làm hoặc không được tiếp cận các hệ thống y tế và phúc lợi ở nước sở tại.