Giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp khoáng sản
Theo các doanh nghiệp khoáng sản, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay có thể chiếm tới 30–40% doanh thu. Chia sẻ với 'gánh nặng' này, đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, chính sách sẽ thay đổi trên tinh thần thu theo sản lượng thực tế.
Gánh nặng kép đè lên doanh nghiệp
Tại Hội thảo "Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản", ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, cho biết" Hiện các doanh nghiệp khai khoáng đang phải thực hiện hai nghĩa vụ tài chính lớn: thuế tài nguyên (theo Luật Thuế tài nguyên 2009) và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (theo Luật Khoáng sản 2010, được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024).
Hai cơ chế này đều nhằm mục tiêu thu ngân sách từ tài nguyên công, nhưng lại đánh vào cùng một đối tượng, khiến gánh nặng tài chính trở nên bất hợp lý.

Toàn cảnh Hội thảo Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản.
"Theo phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay có thể chiếm tới 30 - 40% doanh thu, cao hơn nhiều so với thông lệ quốc tế", ông Tuấn nói.
"Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế royalty (phí cấp quyền) linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, với tổng mức thu thấp hơn đáng kể".
Ông cho rằng sự chồng lấn giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác đang "làm méo mó động lực đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào khai thác hiệu quả và chế biến sâu" – một hướng đi quan trọng được xác định trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Đại diện doanh nghiệp khoáng sản, ông Phan Chiến Thắng, Phó tổng Giám đốc Công ty Masan High-Tech Materials (MHT), cho rằng: Ngành khoáng sản không hề đơn giản như nhiều người nghĩ. Đằng sau mỗi tấn quặng là chi phí công nghệ, là rủi ro thị trường và áp lực tài chính nặng nề.
MHT hiện sở hữu mỏ Vonfram đa kim Núi Pháo (Thái Nguyên) – một trong những mỏ vonfram phức tạp và lớn nhất thế giới, với 4 thành phần kim loại quý: Vonfram, Florit, Đồng và Bismut.
"Một cục quặng như thế chứa bốn kim loại, nhưng tới 80% khối lượng bị loại bỏ. Chỉ 20% còn lại được xử lý bằng công nghệ cao để tách ra các sản phẩm đạt độ tinh khiết 99%.
Điều đó đòi hỏi đầu tư cực lớn, trong khi khung pháp lý hiện hành vẫn chỉ được thiết kế cho mỏ đơn kim, khai thác quặng nguyên khai", ông Thắng nói.
Theo ông, chính sách tài chính thay đổi liên tục trong quá trình đầu tư khiến doanh nghiệp rất khó xoay xở.
"Trước khi đầu tư (năm 2010), thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu chỉ dưới 10%. Nhưng sau khi chúng tôi hoàn thiện dự án, các mức thuế tăng lên tới 25%. Rồi đến lượt tiền cấp quyền khai thác, phí bảo vệ môi trường phát sinh sau khi dự án đã đi vào hoạt động, làm đảo lộn toàn bộ kế hoạch tài chính".
Đáng chú ý, tổng các loại thuế và phí mà doanh nghiệp phải nộp, chưa kể thuế thu nhập doanh nghiệp, chiếm tới 24 - 26% doanh thu. "Với mức gánh nặng như vậy, doanh nghiệp rất khó duy trì năng lực cạnh tranh quốc tế," ông Thắng nói, đồng thời khẳng định "doanh nghiệp không mong ưu đãi, chỉ mong chính sách ổn định, dự đoán được và được tham vấn trước khi ban hành".
Cần thu theo sản lượng thực tế
Từ góc độ chuyên gia, ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cao cấp về thuế, cho rằng, chính sách tài chính cho ngành khoáng sản cần được nhìn nhận một cách tổng thể. "Doanh nghiệp khai khoáng vừa phải thuê đất, vừa nộp tiền bảo vệ môi trường, lại chịu hàng loạt thuế và phí đặc thù. Tức là một dự án mỏ phải gánh ít nhất ba tầng nghĩa vụ tài chính", ông phân tích.
Theo ông Phụng, định nghĩa về "khoáng sản nguyên khai" trong luật hiện nay đã không còn phù hợp, bởi thực tế nhiều doanh nghiệp đã đầu tư chế biến sâu, sản phẩm không còn là quặng thô. Ông Phụng cũng nhấn mạnh, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là chính sách cần thiết, nhưng phải được thiết kế lại cho minh bạch và linh hoạt hơn.
Chia sẻ với các ý kiến đóng góp, ông Trần Phương, Phó cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ TN&MT, cho biết, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là một chính sách được xây dựng trên cơ sở quyền sở hữu tài sản công.
Đây là "khoản lợi ích kinh tế mà Nhà nước, với tư cách chủ sở hữu, nhận được khi chuyển giao quyền khai thác tài nguyên cho doanh nghiệp".
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, kể từ khi triển khai chính sách này (từ 2014 đến hết tháng 7/2025), ngân sách đã thu được hơn 53.000 tỷ đồng, tương đương 4.500–5.000 tỷ đồng mỗi năm.
Tuy nhiên, ông Phương cũng chỉ rõ những bất cập đang tồn tại trong cách tính và thu: "Tiền cấp quyền hiện nay tính theo trữ lượng khoáng sản được phê duyệt. Nhưng trữ lượng luôn có sai số nhất định, nên khó đảm bảo chính xác. Doanh nghiệp lại phải nộp tiền trong nửa đầu thời hạn dự án, khi chưa tạo ra sản phẩm, gây áp lực vốn rất lớn".
Để khắc phục, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đã có bước thay đổi quan trọng: tiền cấp quyền sẽ được thu hàng năm và quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế.
Ông Phương cho rằng, cơ chế mới này "phù hợp hơn với thực tế, giảm rủi ro cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo nguồn thu cho ngân sách".