Giữ nhịp phục hồi, tận dụng 'điểm rơi' cuối năm cho tăng trưởng

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động, các chỉ dấu tháng 10 và 10 tháng năm 2025 cho thấy đà phục hồi của kinh tế Việt Nam tiếp tục được củng cố trên các trụ cột then chốt.

Nội lực phục hồi, động lực tăng trưởng lan tỏa

Báo cáo của Cục Thống kê - Bộ Tài chính cho thấy, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 ước tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2025, IIP tăng 9,2%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo - động lực chính của tăng trưởng tiếp tục dẫn dắt với mức tăng cao. Đáng chú ý, IIP tăng ở cả 34 địa phương, thể hiện sự phục hồi lan tỏa hơn so với các giai đoạn trước. Trong khi đó, bức tranh doanh nghiệp cũng cho thấy chuyển biến tích cực. Trong tháng 10, cả nước có gần 18 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 6,8% so với tháng trước và 26,5% so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 11,6 nghìn, tăng 7,9% và tăng 33,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, cả nước có 255,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,5%; bình quân mỗi tháng có 25,6 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường, cho thấy niềm tin kinh doanh tiếp tục được củng cố.

Hoạt động bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 đạt 598,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng, con số này đạt 5.772,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% (loại trừ yếu tố giá tăng 7%). Số liệu này cho thấy tiêu dùng nội địa tiếp tục duy trì vai trò động lực quan trọng đối với tăng trưởng, hỗ trợ khả năng cân bằng trong bối cảnh môi trường kinh tế toàn cầu còn nhiều rủi ro.

Trên bình diện thương mại quốc tế, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 10 đạt 81,49 tỷ USD; tính chung 10 tháng đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 391,0 tỷ USD, tăng 16,2%; kim ngạch nhập khẩu đạt 371,44 tỷ USD, tăng 18,6%. Cán cân thương mại tháng 10 xuất siêu 2,6 tỷ USD và tính chung 10 tháng xuất siêu 19,56 tỷ USD.

Về đầu tư, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tháng 10 ước đạt 91 nghìn tỷ đồng, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, con số này đạt 640,2 nghìn tỷ đồng, bằng 63,1% kế hoạch năm và tăng 27,8% so với cùng kỳ. Sức bật giải ngân cao hơn giai đoạn trước góp phần quan trọng thúc đẩy tổng cầu, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam tính đến ngày 31/10 đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6%; vốn thực hiện đạt 21,3 tỷ USD, tăng 8,8%. Dòng vốn này tiếp tục tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo - cho thấy sự dịch chuyển chuỗi cung ứng khu vực và niềm tin của nhà đầu tư quốc tế vào môi trường kinh doanh trong nước.

Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam cho rằng, các số liệu về tăng trưởng công nghiệp, đầu tư công, vốn FDI, tiêu dùng… cho thấy nền tảng tích cực cho tăng trưởng quý IV và cả năm. Cùng với đó, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động rất tích cực dù chưa phản ánh toàn bộ bức tranh đầu tư tư nhân, nhưng cũng là chỉ dấu quan trọng cho thấy niềm tin khu vực tư nhân và doanh nghiệp khởi nghiệp đang gia tăng tích cực.

Thách thức và giải pháp trọng tâm cho “điểm rơi” quý IV

Mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực, nền kinh tế vẫn đối diện với một số thách thức cần lưu ý trong điều hành cuối năm. Trước hết, chi phí đầu vào và nguy cơ biến động giá lương thực, thực phẩm dưới tác động thời tiết, thiên tai có thể gây sức ép cục bộ lên chỉ số CPI. Theo báo cáo của Cục Thống kê, CPI tháng 10 tăng 0,20% so với tháng trước và tăng 3,25% so với cùng kỳ; bình quân 10 tháng tăng 3,27% (lạm phát cơ bản tăng 3,20%) cho thấy áp lực giá cả vẫn được kiểm soát, nhưng không thể chủ quan. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn ở mức cao. Tính chung 10 tháng qua, tổng số doanh nghiệp rút lui khoảng 190,6 nghìn, tức bình quân mỗi tháng 19,1 nghìn doanh nghiệp rời khỏi thị trường, cho thấy còn nhiều khó khăn. Cùng với đó, tiến độ giải ngân đầu tư công của một số bộ, ngành và địa phương vẫn còn thấp, có nguy cơ ảnh hưởng tới hiệu quả lan tỏa sản xuất trong các tháng cuối năm. Trong khi đó, những bất định từ bên ngoài, nhất là nhu cầu thị trường và môi trường chính sách lãi suất, tỷ giá toàn cầu còn bấp bênh, vẫn là các yếu tố có thể tác động tiêu cực đến kinh tế trong nước.

Công nghiệp chế biến, đầu tư công và tiêu dùng nội địa, cùng dòng vốn FDI tăng trưởng tích cực, nền kinh tế đang tích lũy thêm xung lực quan trọng để giữ nhịp tăng trưởng trong quý IV. Tuy nhiên, những thách thức về giá cả, chi phí đầu vào và sức bền của khu vực doanh nghiệp đòi hỏi điều hành linh hoạt, quyết liệt và đồng bộ hơn nữa. Việc kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng và hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp sẽ không chỉ giúp hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2025, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững trong năm 2026 và các năm tiếp theo.

Theo TS. Lê Duy Bình, trong khoảng thời gian chưa đầy hai tháng còn lại của năm, ưu tiên lớn nhất vẫn là đẩy nhanh giải ngân đầu tư công. Mặc dù tốc độ giải ngân 10 tháng đã tăng mạnh so với cùng kỳ, nhưng so với tiến độ thời gian thì vẫn “chưa thực sự tương xứng”. Chuyên gia này nhấn mạnh, nếu phấn đấu đạt mức giải ngân tiệm cận 100% kế hoạch sẽ bổ sung trực tiếp vào tổng cầu, tạo hiệu ứng kéo mạnh mẽ cho tăng trưởng, đồng thời hỗ trợ bệ phóng cho năm 2026. Cùng với đó, nguồn lực đầu tư tư nhân đang thể hiện tín hiệu tích cực. Do đó việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và tháo gỡ vướng mắc pháp lý là hết sức cần thiết để thúc đẩy hơn nữa cho khu vực này.

Ở góc độ thị trường, tiêu dùng nội địa sẽ trở thành “động lực mùa cao điểm” trong tháng 11-12 khi nhu cầu mua sắm dịp Noel, Tết Dương lịch và chuẩn bị cho Tết Âm lịch bắt đầu tăng mạnh. Với mức tăng gần 10% trong 10 tháng, sức mua của dân cư vẫn duy trì khá tích cực. Trong khi đó, nhu cầu hàng hóa từ các thị trường nhập khẩu lớn cũng tăng theo chu kỳ: dệt may, đồ chơi, điện tử, nội thất, trang trí… Do vậy, doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội mùa vụ này.

Tuy nhiên, giai đoạn nhu cầu tăng mạnh cuối năm cũng có thể tạo thêm áp lực giá cả, kiểm soát lạm phát. Do đó, theo TS. Lê Duy Bình, việc đảm bảo cân đối cung - cầu, lưu thông hàng hóa thông suốt, kiểm soát giá những mặt hàng thiết yếu sẽ góp phần giữ ổn định tâm lý thị trường. Ngoài ra, tình trạng bão lũ gây thiệt hại trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, sinh hoạt của người dân và làm gián đoạn chuỗi cung ứng cục bộ tại một số khu vực, địa phương. Do đó, việc khắc phục nhanh hậu quả bão lũ cũng cần được coi là nhiệm vụ cấp bách.

Các chuyên gia cho rằng về tổng thể, các nhiệm vụ điều hành 2 tháng cuối năm cần tập trung vào: ổn định vĩ mô, bình ổn thị trường, thúc đẩy tổng cầu, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất, kiểm soát rủi ro giá cả và đảm bảo nguồn hàng cho tiêu dùng Tết. Với những động lực từ công nghiệp, tiêu dùng, FDI, xuất khẩu… nền kinh tế đang có cơ sở vững chắc để đạt mục tiêu cả năm 2025. Bên cạnh đó, các biện pháp điều hành linh hoạt của Chính phủ, sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp và vai trò tích cực của tiêu dùng nội địa sẽ tiếp tục là động lực duy trì đà tăng trưởng. Tuy nhiên, để đà phục hồi được bền vững, sẽ còn nhiều việc phải làm trong khoảng thời gian tới đây. Quý IV là “điểm rơi” quan trọng, quyết định mức đóng góp vào tăng trưởng cả năm. Việc đẩy nhanh tiến độ các công việc và giải pháp trong giai đoạn này không chỉ góp phần hiện thực hóa mục tiêu kinh tế 2025, mà còn tạo dư địa vững chắc cho tăng trưởng 2026.

Các nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm 2025

Để hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2025, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 4/11/2025 về triển khai nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao cần kịp thời đánh giá tác động của thiên tai, bão lũ để rà soát kịch bản tăng trưởng, có giải pháp hiệu quả bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên và năm 2026 đạt 10% trở lên. Tiếp tục kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm với chính sách tiền tệ phù hợp, kịp thời và các chính sách vĩ mô khác; đồng thời đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, hướng tín dụng vào sản xuất - kinh doanh, đẩy mạnh các chương trình kích cầu tiêu dùng, bảo đảm nguồn cung hàng hóa, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá.

Đỗ Lê

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/giu-nhip-phuc-hoi-tan-dung-diem-roi-cuoi-nam-cho-tang-truong-173240.html