'Linh mộc' ở Lam Kinh
Lam Kinh địa linh, nhân kiệt, đất ấy không chỉ là nơi phát tích của triều hậu Lê - một triều đại thái bình, thịnh trị và kéo dài bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta, mà ở đó còn có những câu chuyện kỳ bí xung quanh các loài 'linh mộc' vẫn đang tồn tại.
“Kỳ hoa, dị thảo”
Chuyện “nhân kiệt” của đất Lam Kinh vốn dĩ là chính sử, đây là nơi phát tích của triều hậu Lê, tồn tại gần 600 năm – một triều đại thịnh trị, phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Tuy nhiên, chuyện địa linh sinh ra những “kỳ mộc” thì không phải ai cũng biết. Những chuyện ghi dưới đây, đều được xem là những sự lạ ở vùng đất này.
Ông Trịnh Đình Dương - Giám đốc Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa, người từng có thâm niên gắn bó với Khu di tích Lam Kinh trên cương vị Trưởng ban quản lý trước đó, kể rằng: Đầu tiên là chuyện về cây lim cổ đã hiến xác cho công cuộc trùng tu, phục dựng lại chính điện Lam Kinh. Vốn là cây lim cổ thụ lớn nhất trong quần thể rừng lim ở khu di tích, có tuổi đời ước tính khoảng 600 năm. Vào năm 2010, khi Dự án phục hồi Chính điện Lam Kinh được phê duyệt thì cây lim đang xanh tốt, tỏa bóng bất ngờ trút lá như người đã thụ đại thọ, tẩy trần để chuẩn bị về với tiên tổ.
Một câu chuyện khác về “địa linh” đã sinh ra “kỳ mộc” là chuyện về cây ổi “cười” trong khu di tích. Cây vốn được ông Trần Hưng Dẫn – một người dân trú tại làng Hành Thiện, xã Xuân Trường, tỉnh Nam Định cung tiến vào năm 1933. Người ta kể rằng, ông Dẫn vốn hiếm muộn về đường con cái nên đã tìm đến cầu tự trước mộ vua Lê Thái Tổ. Năm sau, mặc dù đã bước vào tuổi lục tuần nhưng vợ ông vẫn hạ sinh cho ông một quý tử nối dõi tông đường. Để tỏ lòng thành kính, tri ân ơn trên, ông Dẫn đã cung tiến 4 tượng voi, 2 cây long não và cây ổi để trồng trong khu lăng mộ nhà vua.
Cây ổi này hiện đang “ngự” trong khuôn viên khu Vĩnh Lăng, nằm cách khu chính điện khoảng 50m về phía Tây. Thân và cành cây có dáng huyền uyển chuyển, nhìn xa tựa như một con rồng đang bay la đà, chầu về nghinh môn. Đứng bên gốc ổi, người ta chỉ cần dùng một ngón tay “cù” nhẹ vào bất cứ phần nách cành nào đó, cả thân cây cũng sẽ rung lên, cả những chiếc lá dù ở tít trên ngọn cây cũng rung động như đang phải bật cười vì... nhột. Đặc biệt, khi ta đưa lòng bàn tay áp vào thân cây, nhắm mắt và thả lỏng tinh thần, cả cơ thể sẽ có cảm giác lâng lâng, bồng bềnh như đang trôi lạc vào một miền vô định nào đó.
Để “thử” độ linh ứng, nhiều nhà nghiên cứu đã cố tình chiết cành và đem nhân ở một mảnh đất khác. Ở đất mới, cây vẫn sinh trưởng bình thường nhưng chỉ khác là không biết “cười” như cây mẹ trong Vĩnh Lăng. Có lẽ chính vì thế mà người dân địa phương cho rằng: Nơi đặt lăng mộ vua Lê Thái Tổ là nơi hội tụ linh khí của đất trời, là nơi thiêng liêng nên cây sống lâu năm hấp thụ linh khí mới hóa ra như thế.
Nhằm giải mã hiện tượng kỳ bí của cây ổi, năm 2008, Bộ Khoa học Công nghệ cũng đã có đề án nghiên cứu cấp quốc gia về dòng gen của cây ổi ở Lam Kinh, nhưng đến nay vẫn chưa thể công bố kết quả.
Cũng theo ông Dương, ở Lam Kinh, ngoài các câu chuyện về cây lim hiến thân, cây ổi cười, người ta còn được nghe một câu chuyện khác mang đậm tính truyền kỳ, liêu trai về cây đa thị. Cây đa này đứng ngay góc trái sân chầu với một vẻ cổ kính, uy nghi, tỏa bóng trên một vùng rộng lớn. Theo người dân kể: Hơn 300 năm trước, ở vị trí cây đa ngày nay có một cây thị rất lớn tọa lạc. Nhiều chim chóc về làm tổ trú ngụ và mang theo quả đa về ăn nên hạt rơi xuống đất mọc thành cây. Khi lớn lên, cây đa ngày càng xanh tốt, ôm chặt lấy cây thị, dần dần hai cây hóa thành 1 gốc quấn quýt nên dân gian vẫn thường gọi là cây đa - thị.
“Đáng buồn thay, đến năm 2007, cây thị già chết, bỏ lại cây đa với vòng tay rỗng. Khoảng dăm năm trước, bất ngờ dưới gốc cây đa có một cây thị khác mọc lên. Người ta cho rằng, đây là sự tái sinh, luân hồi của kiếp cây. Cây thị đã chuyển kiếp, tìm về bên “tình nhân”, để cây đa không còn cô đơn trong kiếp này…”- ông Dương nói.
Cho muôn sau
Sau nửa năm kể từ khi cây lim ở Lam Kinh chết cũng là lúc việc thiết kế thi công chính điện Lam Kinh hoàn thành. Sự việc nhanh chóng được Ban Quản lý khu di tích báo cáo lên UBND tỉnh Thanh Hóa. Năm 2011, nhân dịp giỗ Vua Lê Thái Tổ, tỉnh Thanh Hóa đã làm lễ “phạt mộc”, cây lim được hạ. Thường thì đặc tính của cây gỗ lim trong tự nhiên, khi già chết đi tâm sẽ bị tiêu (rỗng ruột), nhưng riêng cây lim này thì không, ruột cây vẫn đặc nguyên khối. Khi các thợ mộc tiến hành bóc hết lớp vỏ, giác, phần lõi cây còn lại có đường kính trùng khít với chân đế đá cột cái của chính điện xưa để lại là 82 cm. Phần ngọn cây khoảng 0,65cm thì vừa với chân tảng cột quân, hai nhánh cây đủ làm một cột góc và một thượng lương.
Ông Trịnh Đình Dương cho biết: Chính vì sự trùng hợp này, những người thi công dự án đã quyết định đưa toàn bộ phần thân cành vào để thi công khu chính điện. Dù không nói ra nhưng hầu hết những người chứng kiến đều tin rằng: Cây lim được sinh ra để thực hiện sứ mệnh cao cả của riêng mình ở 600 năm sau. Với ý nghĩa là cây bản địa, sinh trưởng trong rừng Lam Kinh, vì thế, khi đưa vào công trình, cây lim được định vị là cây cột cái, nằm trong hậu điện (nơi nghỉ ngơi của vua trước đây), là chốn cung cấm linh thiêng nhất. Khi dựng 138 cột trong chính điện, cột cái cũng được dựng lên đầu tiên. Cây cột này đứng gần long sàng, nơi ngủ của đức vua Lê Thái Tổ giống như đứng canh giấc ngủ cho vua vậy.
“Sau này, nhiều nhà khoa học lâm nghiệp nghiên cứu đã đưa ra những tính toán rằng, với tuổi cây khoảng trên dưới 600 năm, có thể tuổi cây lim trùng với tuổi của vua Lê Thái Tổ, hoặc trùng với thời điểm khi nhà vua dựng cờ khởi nghĩa, hoặc trùng với năm ông lên ngôi Hoàng đế”- ông Dương nhận định.
Cùng tôi đi bách bộ trên con đường lát đá xanh cổ, chạy uốn lượn trong khu di tích rộng hơn 200 ha, Trưởng Ban quản lý Khu di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh Nguyễn Xuân Toán đương nhiệm khẳng định, giá trị to lớn của khu di tích được ghi trong “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú rằng: "Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái Tông và các lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm.
Lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên tả, hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp.
“Lam Kinh là vùng đất thiêng, còn ẩn chứa trong lòng nhiều điều kỳ bí khó có thể lý giải bằng trực quan, khoa học. Dẫn như vậy để thấy được cái tinh anh, thâm sâu của các bậc tiền nhân - những người đã tạo nên hào khí Lam Sơn, giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc. Có thể, khi chọn khu đất linh này, người xưa không chỉ đơn thuần xem đây làm nơi an nghỉ cho hoàng tộc mà còn mong muốn tạo phúc khí trường tồn cho con dân, bờ cõi muôn sau”- ông Toán nói với tôi như chiêm nghiệm.
Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/linh-moc-o-lam-kinh-10298705.html