Mênh mang câu hát trên những dòng sông...

Mạng lưới sông ngòi dày đặc không chỉ góp phần tắm mát, bồi đắp phù sa cho nương xanh, bờ bãi được mùa, xóm làng trù mật mà còn là không gian lắng đọng biết bao giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc của xứ Thanh. Giữa cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, nét trữ tình, thơ mộng đan xen nét phóng khoáng vừa là chất liệu, khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cũng là môi trường diễn xướng độc đáo của nhiều loại hình âm nhạc dân gian xứ Thanh.

Tiết mục biểu diễn của Đoàn nghệ thuật quần chúng tỉnh Thanh Hóa tại Hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” khu vực Bắc Trung bộ được tổ chức tại Nhà hát Lam Sơn vào tháng 7/2025.

Tiết mục biểu diễn của Đoàn nghệ thuật quần chúng tỉnh Thanh Hóa tại Hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” khu vực Bắc Trung bộ được tổ chức tại Nhà hát Lam Sơn vào tháng 7/2025.

1. “Một tiếng “huầy dô” xô con đò dọc/ Người trên bờ áo cũng đẫm mồ hôi” (Sông Mã - Huy Trụ). Từ lâu, hò sông Mã trở thành một trong những chỉ dấu của đặc sắc văn hóa xứ Thanh. Nhắc đến xứ Thanh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến hò sông Mã và ngược lại.

Hò sông Mã là thể loại hò lao động trên sông nước. Chủ nhân của những điệu hò ấy là những trai đò, hoặc “hốp đò” với sức lực cường tráng, dẻo dai, dày dạn kinh nghiệm sông nước. Trong quá trình di chuyển dọc sông Mã, phần vì muốn vơi đi nặng nhọc, khó khăn vất vả của công việc, để làm vui lòng khách cùng đồng hành trên thuyền, phần vì tự sâu thẳm mỗi tâm hồn con người đã dạt dào cái tình, cái thú tiêu diêu, tự tại mà hình thành nên những điệu hò vọng mãi ngàn năm. Phải nói ngay rằng, không phải chỉ có sông Mã của xứ Thanh mới có bến đò dọc, hình thành nghề đò dọc sôi nổi hoạt động một thời. Tuy nhiên, ít có vùng đất nào xây dựng được kho tàng hò sông nước như ở nơi đây.

Hò sông Mã là một loại hình hát tập thể trên sông nước, có vế xướng của người cầm cái và vế xô của các trai đò (đôi khi của cả khách đò), được chia làm 5 chặng hò theo cuộc hành trình, trong mỗi chặng, mỗi điệu hò lại có hàng trăm câu hò khác nhau phù hợp với ngữ cảnh nơi con đò đi qua.

Trên hành trình ngược dòng Mã giang không thể thiếu những đêm cả hóp đò và du khách cùng đi dưới ánh sao đêm. Lúc này, giai điệu hò ru ngủ vang lên trầm ấm, nhịp nhàng hòa cùng tiếng sóng nước vỗ vào mạn thuyền gợi lên bao xúc cảm: Thuyền em bến dưới ngược lên/ Thuyền anh ở mạn sông trên mới về/ Đôi bên cửa máng song kề/ Bên ấy có chật thì về bên đây”...

Cố nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ khi viết cuốn sách “Tinh hoa văn hóa xứ Thanh” (2019, NXB Thanh Hóa) đã đề cập đến tiếng hò sông Mã với những kiến giải am tường, sâu sắc: “Hò sông Mã xoay quanh mấy tiếng cơ bản “dô ta”, “dô hò”, “dô khoan”... Giữa làn điệu này với làn điệu kia, tưởng lặp lại mà không lặp lại, giai điệu đơn giản, có điểm “nốt” hoa mỹ do sáng tạo hợp tình hợp lý của người bẻ lái tài hoa. Tiếng nói người Thanh Hóa phát âm hơi nặng, nhưng không phải chỉ có “dô ta” rất phù hợp với công việc nặng nhọc. Ngoài ra còn có “dô khoan” nghe dịu dàng, nhẹ nhàng khi mát mái xuôi chèo trong làn ru của hò đường trường. Câu “xô” dài nhất, thong thả, ngân nga, giọng trầm ấm, tha thiết, như tiếng thủ thỉ, tâm tình hòa cùng tiếng mái chèo nhẹ nhàng, tiếng sóng lượn vỗ mạn thuyền, tựa bàn tay mẹ hiền “bống bống bang bang” ru con vào giấc ngủ canh khuya”...

2. Không chỉ có dòng Mã giang mênh mang những điệu hò. Mạng lưới sông ngòi dày đặc không chỉ góp phần tắm mát, bồi đắp phù sa cho nương xanh, bờ bãi được mùa, xóm làng trù mật mà còn là không gian lắng đọng biết bao giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc của xứ Thanh. Giữa cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, nét trữ tình, thơ mộng đan xen nét phóng khoáng vừa là chất liệu khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật vừa là môi trường diễn xướng độc đáo của nhiều loại hình âm nhạc dân gian xứ Thanh.

Về với dòng Lãng giang những ngày diễn ra lễ hội đền Mưng (xã Thắng Lợi), mỗi người như được dịp hòa mình vào các hoạt động văn hóa – văn nghệ, tín ngưỡng đặc sắc như: hát chèo thờ, rước Thánh, đua thuyền... Trong đó, hát chèo thờ được xem là “linh hồn” của lễ hội. Hát chèo thờ đền Mưng diễn ra ở cả không gian trên cạn và dưới nước, trên dòng Lãng giang, đúng như câu ca vẫn được lưu truyền: “Trên đền trò hát, dưới sông chèo thuyền”.

Theo các cụ cao niên trong làng, hát chèo thờ đền Mưng có nhiều nét riêng biệt so với các nơi khác. Nếu các làn điệu chèo của vùng đồng bằng Bắc bộ thường tập trung luyến láy âm i thì đối với hát chèo thờ xã Trung Thành lại tập trung luyến láy ở âm a (thường gọi là chèo a). Nội dung của hát chèo thờ nơi đây thường đa dạng về làn điệu như: đường trường, sắp, vãn, sử, sa lệch, hát cách, hát nói (ngâm, vỉa, nói lối), hề. Trước đây, hát chèo thờ có 4 tấn (vở) thường xuyên được trình diễn là: Thục Vân, Tuấn Khanh, Lưu Quân Bình và Tống Trân - Cúc Hoa. Ngoài ra còn có các bài hát hầu thánh khác. Tuy nhiên, cùng với sự chảy trôi của thời gian, đến nay, hát chèo thờ xã Trung Thành chỉ còn lưu giữ được 2 vở diễn là: Lưu Quân Bình, Tống Trân - Cúc Hoa.

Tuy đều là hát chèo thờ nhưng vì diễn ra ở hai không gian khác nhau nên mỗi hình thức lại mang đến nét đặc trưng, hấp dẫn riêng. Chèo cạn diễn ra ngay tại đền Mưng – không gian thờ tự linh thiêng nên cả hình thức diễn xướng, âm nhạc đòi hỏi sự nghiêm cẩn, trang nghiêm. Đội hát múa gồm các nữ quan mặc trang phục mớ ba, mớ bảy đứng thành hai hàng, mỗi người cầm một mái chèo, chân nhún nhảy nhè nhẹ, bước lên, lùi xuống nhịp nhàng, khoan thai, tay đưa mái chèo theo nhịp hát. Âm điệu của chèo cạn không luyến láy, bay bổng nhưng cấu trúc hình thức của bài mang tính hoàn chỉnh như một ca khúc và tất cả đều mang âm hưởng của dân ca xứ Thanh.

Trong khi đó, chèo rước hay hò chèo đua sẽ diễn ra trong không khí rộn ràng, sôi nổi khắp một dải sông. Trên đoạn đường sông từ đền Mưng đến đền Tam Giang, các thuyền nối đuôi nhau theo nhịp chèo, tiếng hò vang vọng dòng sông. Nhiều khi xuất hiện lối hát đối đáp giữa người chèo dưới thuyền với người dân các làng dọc bờ sông. Ví như: “Thuyền rồng đã đến vực Si/ Con gái làng Vặng làm chi ở nhà?/ Gái làng Vặng đang xáo cỏ cà/ Nghe tiếng thuyền trải em ra mừng thuyền”. Hò chèo đua gồm những điệu hò đua thuyền tranh thứ hạng, giành giải thưởng trên dòng Lãng giang.

Những câu hò, làn điệu chèo, dân ca kết hợp với các hình thức diễn xướng dân gian đã hòa quyện, tạo nên những thanh âm, sắc màu âm nhạc dân gian xứ Thanh lôi cuốn, “món ăn” tinh thần vô giá, hàm chứa giá trị nhân văn sâu sắc. Giữa nhịp sống hôm nay, khi nhiều giá trị văn hóa truyền thống, tinh thần đang dần mai một, âm nhạc dân gian xứ Thanh vẫn luôn bền bỉ sức sống, vẫn là nhánh phù sa màu mỡ góp phần kiến tạo nên dòng sông văn hóa xứ Thanh mênh mang, giàu bản sắc.

* Bài viết sử dụng tư liệu trong cuốn sách “Âm nhạc dân gian xứ Thanh” (NXB Thanh Hóa, 2017).

Bài và ảnh: Nguyên Linh

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/menh-mang-cau-hat-tren-nhung-dong-song-262000.htm