Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: Bền bỉ xây dựng thương hiệu trà Shan tuyết

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu là một trong những người tiên phong bảo tồn và phát triển trà Shan tuyết Suối Giàng, tạo sinh kế bền vững cho bà con dân tộc thiểu số.

Mang trong tim niềm đam mê cháy bỏng với dòng trà quý hiếm tại Yên Bái, hơn 15 năm qua nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu bền bỉ, kiên trì theo đuổi giấc mơ nâng tâm và xây dựng thương hiệu trà Shan tuyết, Suối Giàng.

Báo Công Thương đã có cuộc trò chuyện cùng với Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu về hành trình gắn bó và nâng tầm trà Việt.

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu cùng bà con người Mông bên cây trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng hơn 500 năm tuổi. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu cùng bà con người Mông bên cây trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng hơn 500 năm tuổi. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Thưa nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu, điều gì khiến anh tâm huyết với việc gìn giữ và phát triển dòng trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng giữa rất nhiều dòng trà đang có mặt trên thị trường hiện nay?

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: Với tôi, trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng không chỉ là một loại trà mà là tinh hoa trời đất và con người Yên Bái đã dày công giữ gìn qua hàng trăm năm. Tôi tâm huyết với Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng không chỉ vì chất trà vốn mạnh mẽ, hào sảng, có hậu vị sâu lắng rất riêng mà vì nó chứa đựng một câu chuyện văn hóa bản địa chưa từng được kể trọn vẹn.

Và với trách nhiệm của người làm trà, tôi luôn tâm niệm không chỉ là pha một ấm trà ngon, mà cầnphải kể lại được câu chuyện của núi rừng, của người Mông, của những triết lý sống sâu sắc ẩn trong từng búp trà trắng sương. Đồng thời, giữa thị trường đầy những dòng trà hiện đại, việc gìn giữ và phát triển trà Shan tuyết cổ thụ không phải là “bảo tồn để cất giữ” mà bảo tồn là để làm sống lại các giá trị có chiều sâu, có giá trị quốc tế.

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Tôi “chạm” vào trà từ năm 2003. Lúc đó tôi sang trao đổi giảng viên ở Vân Nam (Trung Quốc) thủ phủ của trà cổ thụ trên thế giới, đây cũng là nơi tôi bắt đầu học và tìm hiểu về trà cổ thụ. Vì mê trà nên sau giờ dạy, tôi lang thang các vùng chè để học cách làm “tứ đại danh trà” (gồm bạch trà, hồng trà, diệp trà, hoàng trà từ cây trà cổ thụ).

Khi có cơ hội tìm hiểu và tiếp cận với nhiều vùng trà trên thế giới, tôi nhận ra ở những vùng trà nổi tiếng họ thường kết hợp làm trà với làm văn hóa, làm du lịch và tư duy của họ là “làm ít nhưng giá trị cao”.

Về Việt Nam, tiếp xúc với các vùng trà trong cả nước và được “chạm” vào những vùng trà cổ thụ, tôi dần tìm thấy hướng đi cho bản thân. Tôi bắt đầu với trà cổ thụ Suối Giàng với mong muốn đưa trà Việt đến gần với cơ hội khẳng định giá trị trên thị trường quốc tế.

Sau 20 năm học trà và nghiên cứu trà ở khoảng 30 quốc gia, tôi thấy rằng trà Việt Nam hoàn toàn có thể có những bước đi xa hơn nữa. Bởi, khác với các sản phẩm nông nghiệp khác, trà sau khi hái sẽ lại mọc, những cây cổ thụ 300 năm, 500 năm và 800 năm tuổi không phải trồng mà hoàn toàn là sản phẩm thiên nhiên, là tinh hoa của đất trời ban tặng. Vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ, bảo tồn và đây cũng điều thôi thúc tôi rời Hà Nội lên núi để bắt đầu với trà cổ thụ.

Ước mơ đưa trà Shan tuyết cổ thụ ở Suối Giàng thành “quốc bảo”

Trong hành trình gắn bó với cây trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng, anh đã gặp những khó khăn nào khi đưa trà từ vùng dân tộc thiểu số miền núi ra thị trường lớn?

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: “Suối Giàng có gì đâu mà làm, mà phát triển?” “Không làm việc được với người Mông đâu”. Người ta đã “cảnh báo” tôi như thế, khi tôi muốn xây một ngôi làng hạnh phúc trên đỉnh Suối Giàng cao trên 1.000m của tỉnh Yên Bái. Nhưng với bản tính lì và liều, tôi vẫn quyết tâm làm gì đó để góp phần xóa nghèo cho cộng đồng 5.000 người Mông ở vùng đất này.

Người Mông vốn thích sống tự do, không quen gò bó kỷ luật. Vận hành một hợp tác xã toàn người Mông không phải chuyện đơn giản. Đã có một thời gian khi xây dựng Không gian văn hóa trà, tôi bị ám ảnh bởi câu nói: “A Hiếu mày đi về đi” (người Mông chỉ xưng mày - tao). Tôi làm gì họ cũng xua đuổi.

Đồng bào người Mông tham gia xây dựng làng hạnh phúc trên đỉnh Suối Giàng. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Đồng bào người Mông tham gia xây dựng làng hạnh phúc trên đỉnh Suối Giàng. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Những việc khác tôi làm về sau cũng cố tránh không phá vỡ cuộc sống bình yên ở Suối Giàng. Sau này tôi nhận ra rằng, làm với người Mông chỉ khó khăn nếu chỉ làm cho xong việc, không sống cùng họ, chưa từng uống rượu ăn Tết cùng họ, cũng không cùng vượt qua những khắc nghiệt của thiên nhiên trên đỉnh núi.

Thực tế, họ là những con người chăm chỉ, chỉ cần một người hướng dẫn cho họ cách làm kinh tế để có thu nhập và thoát nghèo. Lúc trước, tôi chỉ sống ở ven bản, tách biệt với họ, còn nay tôi đã sống ngay ở trung tâm bản và cùng người Mông làm việc để xây dựng những ngôi nhà khang trang. Tôi hay đùa với họ là: “Ở đây có đến 98% người Mông nên tao là người thiểu số, cần được bảo vệ, yêu thương và chăm sóc”.

Tất cả cũng chỉ hướng đến mục tiêu đưa trà cổ thụ Suối Giàng trở thành “quốc bảo” của Việt Nam. Mà muốn trở thành “quốc bảo” thì trước tiên trà cổ thụ phải được xem là “tỉnh bảo”, “huyện bảo” và thậm chí là “xã bảo”, nghĩa là chính quyền với người dân ở đây phải biết quý cây chè cổ trước, chứ không phải cần làm nhà, sửa bếp thì họ sẵn sàng chặt cây đi. Họ phải biết cách pha trà, dâng trà và làm dịch vụ mời chào tiếp đãi khách. Họ cũng phải biết làm trà thế nào để bán với giá gấp mười lần giá đang bán.

“Chìa khóa” nâng cao sinh kế vùng dân tộc thiểu số, miền núi

Đến nay, theo anh, việc phát triển trà Shan tuyết có ý nghĩa như thế nào đối với sinh kế của bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao?

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: Việc phát triển trà Shan tuyết, nếu làm đúng cách có tâm và có tầm chính là một chìa khóa bền vững để nâng cao sinh kế, gìn giữ văn hóa và tái sinh hệ sinh thái vùng cao.

Trước kia, nhiều hộ người Mông ở Suối Giàng hay các vùng trà cổ khác như Tà Xùa, Sín Chải chỉ hái trà tươi bán rẻ cho thương lái, thu nhập bấp bênh, phụ thuộc vào mùa vụ. Nhưng khi trà Shan tuyết được nâng tầm thành sản phẩm đặc sản có truy xuất nguồn gốc, có thương hiệu, có tri thức bản địa đi kèm, giá trị của từng búp trà tăng lên gấp 5 - 10 lần. Và từ đó, cuộc sống của bà con thay đổi rõ rệt.

Tôi từng có những buổi ngồi bên bếp lửa với những cụ già người Mông hơn 80 tuổi, họ kể rằng “xưa chỉ biết lên rừng hái trà để tồn tại, nay mới biết cây trà là quý như thế nào”. Câu nói đó khiến tôi càng tin rằng phát triển trà Shan tuyết không chỉ là phát triển một ngành hàng, mà là trao lại niềm tự hào, sự chủ động và vị thế văn hóa cho cộng đồng dân tộc thiểu số.

Quan trọng hơn, khi bà con thấy rõ giá trị từ cây trà, họ sẽ giữ rừng, giữ cây, giữ đất. Đó là phát triển sinh kế gắn với bảo vệ tài nguyên, một hướng đi rất nhân văn và có chiều sâu. Vì vậy, mỗi khi tôi thực hiện một nghi lễ trà ngoại giao với Shan tuyết, tôi luôn nhớ rằng: Mỗi búp trà mình dâng lên khách quốc tế, là kết tinh mồ hôi, ký ức và hy vọng của đồng bào miền núi. Không được phép làm hời hợt.

Tới đây, làm thế nào để sản phẩm trà Shan tuyết không chỉ dừng lại ở đặc sản địa phương mà còn trở thành một thương hiệu văn hóa Việt Nam được thế giới biết đến, theo nghệ nhân?

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: Tôi không chỉ làm trà cho cá nhân, cho gia đình mà làm trà cho quốc gia, đất nước. Quyết định này bắt nguồn từ những chuyến tham gia các festival trà quốc tế, nơi tôi nhận ra rằng trà Việt Nam dù chất lượng không hề thua kém bất kỳ loại trà nào khác trên thế giới, nhưng lại chưa được định vị đúng tầm và chưa nhận được sự công nhận xứng đáng trên trường quốc tế.

Tại Việt Nam, việc trà được chế biến và tiêu thụ ngay sau khi hoàn thành là điều rất phổ biến. Người làm trà chưa có thói quen sản xuất trà lâu năm hay trà lên men, điều này dẫn đến việc giá trị của trà không thể gia tăng theo thời gian.

Mặt khác, dù Việt Nam đứng thứ năm thế giới về sản lượng trà xuất khẩu, nhưng phần lớn sản phẩm trà xuất khẩu lại thiếu thương hiệu riêng biệt khiến trà Việt chưa được nhận diện đúng mức trên thị trường quốc tế. Trước thực tế này, tôi càng khao khát mang trà Việt ra thế giới, một tài nguyên quý giá của đất nước vốn vẫn thường được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, giá trị thấp.

Với trà Shan tuyết cổ thụ là sản phẩm chủ lực, tôi quyết tâm hiện thực hóa hành trình nâng tầm trà Việt và đưa sản phẩm này ra thế giới với một tâm thế mới. Tôi chú trọng vào việc cải tiến quy trình sản xuất, từ khâu thu hái, chế biến đến đóng gói, để đảm bảo chất lượng trà luôn đạt tiêu chuẩn cao nhất.

Tôi tập trung vào việc xây dựng thương hiệu trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng, kỹ lưỡng từ khâu lựa chọn chất liệu hũ đựng trà đến từng chi tết thiết kế tỉ mẩn trên bao bì của Trà. Đồng thời, tôi kết hợp giữa sản xuất trà và phát triển du lịch, tạo ra các tour du lịch trải nghiệm văn hóa trà tại Suối Giàng, thu hút du khách đến tham quan và tìm hiểu về trà Shan tuyết cổ thụ, tích cực quảng bá văn hóa trà Việt Nam, giới thiệu trà Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng đến đông đảo bạn bè trong nước và quốc tế.

Mô hình du lịch bản địa giúp cho bà con địa phương tạo ra sinh kế ngay chính trên mảnh đất nơi họ sinh ra. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Mô hình du lịch bản địa giúp cho bà con địa phương tạo ra sinh kế ngay chính trên mảnh đất nơi họ sinh ra. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Để vừa nâng tầm giá trị của trà Shan tuyết, vừa góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số làm giàu bền vững từ chính những cây trà gắn bó với họ qua bao thế hệ, anh có thể chia sẻ thêm về kế hoạch kinh doanh của mình ?

Nghệ nhân trà Đào Đức Hiếu: Tôi cùng bà con Suối Giàng, Yên Bái xây dựng 4 mô hình mẫu tại địa phương. Đầu tiên là Enna Glamping – cắm trại, nghỉ dưỡng; Nahi Village – Ngôi làng hạnh phúc gắn với du lịch trải nghiệm; Không gian văn hóa trà Suối Giàng để thưởng trà và tìm hiểu về văn hóa trà Việt; Giàng House – Nhà của bản em, trường học miễn phí dành cho các trẻ em vùng núi.

Từ 4 mô hình mẫu này, bà con nhân dân đã xây dựng cả 1 hệ sinh thái du lịch tại địa phương, gắn với văn hóa bản địa và những nông sản đặc sắc bản địa, để họ có được sinh kế ngay trên chính mảnh đất nơi họ sinh ra. Người dân tạo được sinh kế ở chính nơi họ sinh ra. Tri thức, văn hóa bản địa, ẩm thực dân gian, nghi lễ truyền thống… được đánh thức, nhờ vào du lịch nông nghiệp.

Nhiều cộng đồng làng quê hồi sinh, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, cuộc sống văn minh hơn, nhờ làm du lịch nông nghiệp. Những hoạt động trên không đơn thuần mang lại thu nhập cho người dân, lợi ích kinh tế cho địa phương, mà còn tạo ra những giá trị vô hình khác. Đó là định vị hình ảnh nền nông nghiệp Việt Nam sinh thái bốn mùa hoa trái, thông qua đó có thể tiếp thị, quảng bá nông sản ngay tại địa phương.

Ngoài ra, thông qua các mô hình trên, hy vọng răng, thời gian tới chúng tôi sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh vùng dân tộc thiểu số miền núi Việt Nam giàu bản sắc văn hóa, người dân Việt Nam đôn hậu, hiền hòa, mến khách. Qua đó hướng đến lan tỏa những làng quê đáng sống, đáng quay về và đáng tìm đến.

Xin cảm ơn nghệ nhân!

Bảo Thoa

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/nghe-nhan-tra-dao-duc-hieu-ben-bi-xay-dung-thuong-hieu-tra-shan-tuyet-407215.html