Ngó sử Minh thấy... thất kinh

Kinh đây là kinh sợ! Chẳng phải như câu của Đỗ Phủ 'Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu' (Lời không làm người kinh động thì chết không nhắm được mắt), mà là kinh sợ cho sự kém khách quan lẫn bịa tạc trong 'Minh Thực lục' (MTL).

1. Nhà xuất bản Hà Nội mới đây đã khiến sự đọc nước nhà thêm phần xôm tụ và sinh khí. Đó là bộ “Minh Thực lục” được xuất bản với hơn 3.000 trang in khổ 16x24 cm. Sách được chuyển ngữ và chú thích công phu bởi dịch giả nổi tiếng Hồ Bạch Thảo. Lại có phần chăm sóc hiệu đính, bổ chú của nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân.

Câu "Quỷ Môn Quan, thập nhân khứ nhất nhân hoàn" (Quỷ Môn Quan, mười người qua chỉ một trở về), thủ bút của Xuân Ba.

Câu "Quỷ Môn Quan, thập nhân khứ nhất nhân hoàn" (Quỷ Môn Quan, mười người qua chỉ một trở về), thủ bút của Xuân Ba.

Minh Thực lục” là bộ biên niên sử viết về triều Minh Trung Quốc. Bộ sử ghi lại các sự kiện bắt đầu từ thời Minh Thái Tổ tới Minh Hy Tông, tổng cộng là 13 triều vua.

Có thể nói, so với các bộ chính sử của nước Nam như "Đại Việt sử ký toàn thư" (Toàn thư) và "Việt thông sử" của Lê Quý Đôn... cũng chép trùng những sự kiện trên thì “Minh Thực lục” phong phú, chi tiết, cặn kẽ hơn nhiều.

Trước nay, “Minh Thực lục” từng được những nhà làm sử, các nhà nghiên cứu Đại Việt thời Hậu Lê, Lê Trịnh thời Nguyễn, thời Pháp và gần đây là các học giả Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp... do những hoàn cảnh khác nhau tiếp cận được văn bản gốc. Nhiều công trình nghiên cứu đã ra đời từ những lần tiếp cận ấy.

Và, bây giờ, bạn đọc, những ai lưu tâm tới cổ sử nước nhà, đặc biệt là thời hậu Lê giai đoạn cuộc kháng chiến chống quân Minh của Bình Định Vương Lê Lợi có thể bỏ ra số tiền khoảng 1,5 triệu đồng để có 3 tập “Minh Thực lục”.

Bộ sách sẽ đáp ứng, thỏa mãn cho nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực như sử, văn, khảo cổ, dư địa chí...

Và, khi tiếp cận “Minh Thực lục”, bạn đọc có thể đối chiếu, so sánh với chính sử Đại Việt như "Đại Việt sử ký toàn thư" để thấy những hạt sạn và không toàn bích - ấy là nói nhã - chứ ngổn ngang những sai lệch cùng bịa tạc của bộ cổ sử “Minh Thực lục” này.

Rất mong những kiềm chế, bình tĩnh của bạn đọc trước những ghi chép cùng nhận xét chưa được khách quan, thỏa đáng, thậm chí sai lệch trong “Minh Thực lục” mà người chú thích lẫn hiệu đính trong lần xuất bản này đã công phu tìm ra.

Xin nhường lời cho các nhà nghiên cứu. Người viết bài này chỉ mạo muội khi lục tìm trong “Minh Thực lục” vài chuyện mà trước nay chưa thấy hoặc chép thiếu trong chính sử nước Nam ta giai đoạn Bình Định Vương Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh. Ấn tượng đầu tiên có lẽ là cung cách viết sử lấp liếm, giả nhân giả nghĩa.

Xin đơn cử. Sau khi Giao Chỉ hoàn toàn rơi vào tay giặc Minh, ngày 5/7/1407 dương lịch, Minh Thành Tổ, vị vua thứ 3 nhà Minh ra ngay một chiếu chỉ:

"Nhân An Nam được bình định, nay ban chiếu cho thiên hạ biết An Nam vốn là đất cũ Giao Châu đã được đặt làm quận, huyện của Trung Quốc. Một thời bị luân lạc vào tập tục man di. Nay được dịp đáng được quét sạch ô uế lập lại quận huyện để dân được canh tân, trẫm xét lòng dân chấp thuận lời thỉnh cầu cho đặt Ty Đô sứ Giao Chỉ, các Ty Bố chính sứ Thừa tuyên Giao Chỉ, Ty Án sát đề hình Giao Chỉ cùng các nha lại quân dân. Đặt quan chức cai trị để mở mang làm sạch yêu khí, biến đổi phong tục nước man dã (...). Trong nước An Nam, đối với kẻ cao tuổi đức lớn quan chức phải theo lễ ưu đãi. Đối với những người quan quả cô độc không nơi nương tựa thì lập viện cứu tế chẩn cấp (...). Ô hô! Dương uy vũ không phải lòng ta mong muốn, diệt kẻ đứng đầu tội ác là do quần chúng đồng tình, thi hành cư xử rộng rãi cùng một lòng nhân để vĩnh viễn vui thú cảnh thái bình". (“Minh Thực lục”, Tập I, trang 207, 208)

Mồm miệng, ngôn từ trong chiếu chỉ thì nhân nghĩa thống thiết là vậy. Nhưng, ngay sau đó lại có lệnh khác từ vua Minh: "Sắc dụ quan Tổng binh Thành hầu Trương Phụ, Tả tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh Thượng thư Bộ Binh Lưu Tuấn rằng: Đất Giao Chỉ có nhiều người tài đức, song toàn ẩn dật tại núi rừng, rành kinh điển, văn hay học rộng, có tài hiền lương đứng đầu, nông dân hiếu đễ thông minh chính trực, kẻ thư lại có khả năng được việc thông thạo sách vở, người tập luyện binh pháp vũ nghệ trí mưu, dũng mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm, kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho kỳ được, dùng lễ sai khiến để mang về kinh dùng" (Tập I, trang 226).

Lệnh vua phát, ban ngày 21/6 tức ngày 25/7/1407 và chỉ ít tháng sau, Tổng binh Giao Chỉ Trương Phụ cùng thuộc hạ đã nhanh nhảu thực thi rất hiệu quả chính sách tàn bạo.

"Ngày Đinh Hợi (ngày 7/10 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (tức 6/11/1407) quan Tổng binh Giao Chỉ Trương Phụ tâu rằng đã thăm hỏi khắp các quận, huyện Giao Chỉ để cử những người tài đức, rành kinh điển, giỏi văn chương, học rộng tài cao, thông minh chính trực, lực điền hiếu đễ, hiền lương đoan chính, thông thạo việc quan, hiểu rành binh pháp và tài nghệ các mặt gồm 9.000 người đang lục tục đến kinh đô". (Tập I. trang 237)

Minh Thực lục” không chép, hoặc chép sơ sài, hoặc là ẩn tránh đi những chiếu dụ thực thi chính sách bạo tàn tận diệt văn hóa Đại Việt. Xin trích dẫn công trình nghiên cứu của học giả Nguyễn Huệ Chi về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh... Trong đó, học giả Huệ Chi đã dẫn sách sử của chính Trung Hoa là "Việt Kiệu thư".

Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự "hỏa khí" lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: "Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra, hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại (sách) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ... một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn".

Trận đánh hoành tráng hào sảng của nghĩa quân Lam Sơn và cuộc thua nhục nhã của quân Minh, Liễu Thăng bị chém đầu, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để xin hàng, sự kiện ấy trong “Minh Thực lục” chỉ vài dòng qua quýt và đầy hơi hướng sĩ diện giả dối từ kẻ đứng đầu thiên triều.

"Ngày hôm nay, Thượng thư Bộ Công Hoằng Phúc - người phụ trách Ty Bố chính Giao Chỉ về tới Long Châu (Lê Lợi tha cho về - X.B). Sau khi Liễu Thăng bị giết, Phúc vội vã quay về. Khi đến ải Chi Lăng, Phúc bị quân phòng thủ Lê Lợi bắt. Phúc muốn tự tử nhưng quân phòng thủ quỳ lạy trước mặt Phúc mà nói: Thưa ngài, ngài là cha mẹ của dân Giao, dân Giao nghển cổ trông ngóng cha mẹ, sao ngài lại tự sát. Lê Lợi nghe tin, sai ngay người đến để bảo vệ Phúc, đối đãi hậu lễ và nói rằng sẽ đưa ngài về triều đình". (Tập I, trang 184).

2. Dám chắc bạn đọc nước Nam không khỏi phì cười trước những lời lẽ ngô nghê sai lạc sĩ diện kiểu nói lấy được ấy! Nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi phục kích ải Chi Lăng đợi giặc mà lại quỳ lạy trước đầu sỏ của tướng giặc gọi hắn là cha mẹ dân mình như vậy sao? May sao, đã có những trang của chính sử nước nhà là cuốn "Đại Việt sử ký toàn thư" miêu tả khá chi tiết việc Hoàng Phúc đầu hàng ở trận Xương Giang và những dòng khoát đạt trong “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi: "Đô đốc Thôi Tụ lê gối xin dâng tờ tạ tội/ Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng".

Ải Chi Lăng - hiểm địa của nghĩa quân Lam Sơn và nhiều thời cự giặc phương Bắc.

Ải Chi Lăng - hiểm địa của nghĩa quân Lam Sơn và nhiều thời cự giặc phương Bắc.

Cũng cần nhắc lại sự thật lịch sử về sự kiện này. Thành Xương Giang do nhà Minh lập ra năm 1420. Toàn bộ khu vực thành rộng 26 ha. Chân thành xây bằng đá hộc, gạch vồ rộng 16m. Tường thành đắp đất dày, bề mặt thành rộng 6-7m. Đây là nơi diễn ra trận công thành của nghĩa quân Lam Sơn ngày 28/9/1427 và trận diệt viện binh oanh liệt ngày 3/11/1427, đập tan mấy vạn viện binh của quân Minh.

Từ cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành vây hãm thành Xương Giang, tướng Trần Nguyên Hãn được bổ sung để chỉ huy các đợt công thành. Ông đã cho đào công sự từ các khu rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành, rồi tiến hành nội công ngoại kích với sự phối hợp của toán quân đã lọt được vào nội thành giặc. Đến ngày 28/9/1427, sau hơn 9 tháng vây hãm, thành Xương Giang bị hạ, 10 ngày trước khi viện binh của giặc Minh kéo vào nước ta.

Từ Đông Quan, tướng giặc là Hoàng Phúc và Thôi Tụ đã vội vàng thu thập quân lương tiến về Xương Giang trong khi chưa biết thành đã bị hạ. Giữa cánh đồng Xương Giang, giặc Minh bị bao vây chặt bốn bề. Ngày 3/11/1427, quân Lam Sơn tổ chức đợt tổng tấn công. Sau một ngày chiến đấu, nghĩa quân đã giành được thắng lợi giòn giã, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc.

Kết quả này là một trong những nhân tố quan trọng khiến Vương Thông ở thành Đông Quan phải chấp nhận nghị hòa. Ngày 22/11/1427, Lê Lợi cùng Tổng binh Vương Thông mở hội thề ở thành Đông Đô. Ngày 22/12/1427, quân Minh phải rút về nước.

Sự thật là vậy. Chỉ có một. Nói như khẩu khí người phát ngôn thời nay là: "Không thể bàn cãi"!

Có một sự kiện Cố Cung do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, đời vua thứ hai nhà Minh, ra lệnh xây dựng vào năm 1406. Ròng rã thời gian 14 năm mới xây xong cũng có phần góp công sức, tài trí của người Việt. Như chiếu chỉ trích trên đây của vua nhà Minh: "Những kẻ hiếu đễ thông minh chính trực, kẻ thư lại có khả năng được việc, thông thạo sách vở, người tập luyện binh pháp vũ nghệ trí mưu, dũng mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm, kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho kỳ được, dùng lễ sai khiến để mang về kinh dùng". (Tập I, trang 226).

Một nhân vật tầm cỡ can dự vào công trình vĩ đại ấy là kiến trúc sư Nguyễn An. Dịp khác sẽ đề cập.

Xuân Ba

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/ngo-su-minh-thay-that-kinh-i771121/