Quy định cụ thể các nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số

Luật Công nghiệp công nghệ số đã quy định cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý nhà nước về tài sản số bao gồm việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số; biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền; điều kiện kinh doanh với cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa…

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Ngày 14/6/2025, Quốc hội chính thức thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số. Luật Công nghiệp công nghệ số không chỉ là một đạo luật chuyên ngành, mà còn được kỳ vọng là đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Đây là thời điểm vàng để Việt Nam xây dựng được nền tảng pháp lý chủ động, mở đường cho doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển vững chắc, hội nhập sâu rộng và góp phần tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong kỷ nguyên số. Việt Nam cũng trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành một bộ luật riêng về lĩnh vực công nghiệp công nghệ số.

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH ĐỐI VỚI CUNG CẤP DỊCH VỤ TÀI SẢN MÃ HÓA

Luật quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy thông tin: về tài sản số, có ý kiến cho rằng cần xây dựng một khung pháp lý tài sản số quy định chi tiết các vấn đề cốt lõi, xác định ngay các nội dung phải thực hiện (quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro)..., vừa bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý, giám sát, phòng ngừa rủi ro; làm rõ tài sản số có thể sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư hay không; đề nghị làm rõ nội hàm, tiêu chí phân loại tài sản số.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng theo dự thảo luật, tài sản số đã được quy định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro… đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan.

Do đó, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề này và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.

Các đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua luật.

Các đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua luật.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số (bao gồm việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số; biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật; điều kiện kinh doanh đối với cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa…).

Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền, nội dung quản lý, phân loại tài sản số phù hợp với thực tiễn, yêu cầu quản lý trong các ngành, lĩnh vực.

Luật xác định rõ: Tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.

Theo luật này, tài sản số bao gồm: tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính;

Tài sản mã hóa là một loại tài sản số mà sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính; và tài sản số khác.

CHÍN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ

Luật cũng quy định 9 chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số gồm:

Thứ nhất, huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; từng bước làm chủ công nghệ số; xây dựng hạ tầng công nghiệp công nghệ số dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động công nghiệp công nghệ số.

Thứ hai, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số; phát triển cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên ngành công nghệ số; có cơ chế ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút, trọng dụng nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao, nhân tài công nghệ số.

Thứ ba, có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực, trong đó có cơ chế loại trừ trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong thử nghiệm.

Doanh nghiệp thực hiện dự án thiết kế chip bán dẫn được hỗ trợ kinh phí đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển, sản xuất thử nghiệm, mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ và đổi mới công nghệ từ ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn tài chính cho phát triển công nghiệp công nghệ số quy định của Luật này. HDND cấp tỉnh quy định tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung và mức hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các nội dung quy định tại khoản này phù hợp với điều kiện của địa phương.

Dự án sản xuất, đóng gói, kiểm thử sản phẩm chip bán dẫn được nhập khẩu dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị, công cụ đã qua sử dụng phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất đáp ứng các tiêu chí theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, có cơ chế ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và các cơ chế ưu đãi khác trong nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển, sản xuất, ứng dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.

Thứ năm, phát triển thị trường cho công nghiệp công nghệ số; có cơ chế đặt hàng, ưu tiên đầu tư, thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Thứ sáu, phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng và là nền tảng phục vụ nghiên cứu, phát triển, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số.

Thứ bảy, đẩy mạnh phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các ngành, lĩnh vực và các mặt của đời sống kinh tế- xã hội; đưa trí tuệ nhân tạo trở thành phương thức sản xuất mới; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực nội sinh quốc gia, tạo ra những mô hình kinh tế mới với năng suất và giá trị vượt trội. Nhà nước có chính sách ưu đãi cao nhất để thúc đẩy, nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Thứ tám, có chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hình thành hệ sinh thái bán dẫn Việt Nam.

Thứ chín, phát triển công nghiệp công nghệ số bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.

Tăng số doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số lên 150.000 vào năm 2035 Nhằm xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035, luật đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công. Về tài chính, Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án đặc biệt và kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh. Các dự án sản xuất công nghiệp công nghệ số và doanh nghiệp phụ trợ nhận ưu đãi thuế tương tự khu vực đặc biệt khó khăn, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để tăng cường năng lực sản xuất. Việc phát triển các khu công nghiệp công nghệ số với chính sách ưu đãi hấp dẫn tạo môi trường cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này.

Nhĩ Anh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/quy-dinh-cu-the-cac-noi-dung-cot-loi-trong-quan-ly-nha-nuoc-ve-tai-san-so.htm