Sự trưởng thành về tư duy phát triển
Năm 2025 đánh dấu chặng đường 80 năm kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa-một cột mốc lịch sử thiêng liêng, khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân đất Việt. 80 năm ấy cũng là hành trình xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của dân tộc. Hơn cả một tiến trình phát triển, đó là hành trình trưởng thành về tư duy-tư duy phát triển, quản trị quốc gia, hội nhập và kiến tạo tương lai của đất nước.
Thời kỳ 1945-1975: Kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi chiến tranh
Thời kỳ này, chính sách kinh tế gắn liền với nhiệm vụ quân sự và chính trị, tất cả quyết định kinh tế đều mang màu sắc chính trị, đặt ổn định chính trị lên trên hiệu quả kinh tế. Nhà nước thực hiện cải cách ruộng đất; hợp tác hóa nông nghiệp; quốc hữu hóa công thương nghiệp tư nhân; xây dựng cơ sở công nghiệp nặng, bước đầu xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ kháng chiến, kiến quốc, nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cung, tự cấp, phát triển kém năng động, không cạnh tranh, hiệu quả thấp, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài.
Thời kỳ 1976-1985: Tư duy, cơ chế quản lý duy ý chí, kinh tế khủng hoảng trầm trọng
Đất nước vừa thống nhất đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, cùng với cấm vận, cô lập từ bên ngoài đã tàn phá nặng nề hạ tầng kinh tế-xã hội nước ta, kinh tế gần như kiệt quệ, hạ tầng sản xuất và giao thông bị phá hủy nghiêm trọng.
Quan điểm và cơ chế quản lý kinh tế duy ý chí, mệnh lệnh hành chính đã triệt tiêu động lực và sự hiệu quả của thị trường, không cho người dân và doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, triệt tiêu động lực sản xuất, sự sáng tạo, tính hiệu quả vì người dân và doanh nghiệp không được hưởng thành quả lao động xứng đáng.

Cán bộ, người lao động ngành dầu khí chào cờ trên vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Ảnh: AN HÙNG
Đầu thập niên 1980, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài. Đất nước nông nghiệp nhưng lại thiếu đói thường xuyên. Sản xuất công nghiệp kém hiệu quả. Ngăn sông, cấm chợ, thị trường hàng hóa khan hiếm, tình trạng chợ đen diễn ra phổ biến, giá cả tăng vọt, người dân đầu cơ, tích trữ những loại hàng hóa thiết yếu.
Sản xuất yếu kém, nguồn thu ít, nhu cầu chi tiêu lớn cho khôi phục đất nước và chiến tranh biên giới, hệ thống quản lý hành chính phình to khiến thâm hụt ngân sách kéo dài, Nhà nước phải in tiền để chi tiêu. Giai đoạn 1981-1985, lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế bình quân mỗi năm tăng khoảng 64,7%, không tương ứng với khối lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông.
Để xử lý tình trạng khủng hoảng kéo dài, Đảng và Nhà nước đã thực hiện cải cách giá-lương-tiền bằng việc đổi tiền, tăng lương, điều chỉnh giá; cải tiến phương pháp quản lý doanh nghiệp... Tuy vậy, cuộc cải cách không đạt mục tiêu mà gây nên hậu quả nặng nề. Lạm phát bùng phát nghiêm trọng hơn ngay sau khi Chính phủ thực hiện đổi tiền vào tháng 9-1985. Việc đổi tiền đã khiến sức mua của nền kinh tế, niềm tin vào đồng tiền mới đổi sụp đổ. Kinh tế-xã hội rối loạn, lạm phát tăng vọt lên mức 453,5% vào năm 1986.
Nguyên nhân đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng, siêu lạm phát là do “căn bệnh” duy ý chí, mệnh lệnh hành chính, cải cách nửa vời, thiếu chuẩn bị nền tảng sản xuất và tâm lý xã hội; không thể kiểm soát lạm phát một khi cung không đủ cầu và bằng biện pháp hành chính.
Thời kỳ 1986-2000: Bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển kinh tế
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra quyết định lịch sử, tạo bước ngoặt ấn tượng trong chặng đường phát triển kinh tế của đất nước, đó là: Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế. Chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước đã khởi xướng, tập trung thực hiện đổi mới trên 4 lĩnh vực quan trọng, thiết thực của đất nước, đó là:
Cải cách thể chế kinh tế: Công nhận nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh, từng bước tự chủ tài chính; ban hành một số luật mang tính nền tảng, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế như: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã.
Đổi mới chính sách nông nghiệp, nông thôn: Thực hiện khoán 10, giao quyền sử dụng đất và sản phẩm thu được trên đất cho nông dân, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung cứng nhắc, tạo động lực sản xuất cho nông dân. Từng bước đổi mới chính sách đất đai theo hướng trao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân.
Cải cách tài chính, tiền tệ: Xóa bỏ chế độ bao cấp về giá, tiền lương và phân phối hàng hóa, thiết lập mối quan hệ hàng hóa-tiền tệ theo cơ chế thị trường, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền Việt Nam.
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế: Trong bối cảnh nền kinh tế bị cô lập, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước xác định hội nhập quốc tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi mô hình phát triển. Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, Việt Nam trở thành thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); năm 1998, gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); năm 2000, ký Hiệp định Thương mại song phương Việt-Mỹ, mở cửa thị trường quan trọng này, tạo bước đệm quan trọng để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sau này.
Thành tựu nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới đó là đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) trung bình năm giai đoạn 1986-1990 đạt 4,4%, trong giai đoạn 1991-2000 đạt hơn 7%; chấm dứt tình trạng siêu lạm phát kéo dài nhiều năm, lạm phát từ mức 3 con số 453,5% năm 1986 giảm xuống 95,8% năm 1989 và 37,7% năm 1992, bảo đảm an ninh lương thực; cải thiện đời sống nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 30% năm 2000. Khu vực kinh tế tư nhân dần trỗi dậy với làn sóng thành lập doanh nghiệp tư nhân mạnh mẽ. Xuất khẩu tăng trưởng nhanh, ổn định. Quy mô kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,45 tỷ USD, gấp 18,3 lần năm 1986.
Thời kỳ 1986-2000 đánh dấu công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ nhất, mang tính then chốt với việc chuyển đổi mô hình kinh tế. Đưa kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong những năm tiếp theo.

Hoạt động sản xuất tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát. Ảnh: NGHI TRẦN
Thời kỳ 2001-2020: Bứt phá trong hội nhập và tăng trưởng, chuyển đổi mô hình phát triển
Dấu ấn bứt phá trong hội nhập kinh tế quốc tế là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007), mở ra chặng đường hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với đó, chúng ta ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở rộng đối tác chiến lược và không gian kinh tế, tăng cơ hội thu hút vốn, công nghệ, tri thức mới, nâng tầm vị thế quốc gia. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 282,6 tỷ USD, gấp 19,5 lần so với năm 2000.
Tốc độ tăng GDP bình quân 20 năm thời kỳ 2001-2020 đạt 6,58%; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt mức 2.779USD, gấp 5,57 lần năm 2000, đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm nước nghèo, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp. Năm 2020, tỷ lệ GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 50,56% trong tổng GDP toàn nền kinh tế, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 20,66% của khu vực nhà nước. Chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu: Chủ động chuyển dần mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ sang từng bước ứng dụng khoa học-công nghệ, tăng năng suất. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ rệt. Khu vực ngoài nhà nước phát triển nhanh, trở thành động lực tăng trưởng mới, ngày càng quan trọng; khu vực FDI năng động, chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu.
Giai đoạn 2021-2025: Khởi xướng công cuộc đổi mới lần thứ hai
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025 diễn ra trong bối cảnh thế giới có những biến động sâu sắc về địa chính trị, bất định, khó lường, chuyển đổi số... Trong nước, thể chế vẫn là điểm nghẽn nghiêm trọng; môi trường kinh doanh chưa minh bạch; đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động thấp.
Những thách thức, biến động khó lường trong giai đoạn 2021-2025 là phép thử đối với năng lực điều hành vĩ mô của Chính phủ. Trong bối cảnh khủng hoảng chồng chéo, chính sách tài khóa thực hiện vai trò hỗ trợ phục hồi, duy trì ổn định. Chính sách tiền tệ nới lỏng linh hoạt nhằm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, duy trì thanh khoản, ổn định hệ thống tài chính, kiểm soát lạm phát, duy trì niềm tin thị trường.
Giai đoạn 2021-2025, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, phục hồi tăng trưởng. Năm 2022, GDP tăng 8,02%, cao nhất trong vòng 11 năm qua; lạm phát luôn được kiểm soát dưới mức mục tiêu; huy động và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn. Việt Nam duy trì vị thế là một trong những nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu ASEAN, với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 405,5 tỷ USD, là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo.
Ngày nay, thế giới đang có nhiều đổi thay, xác lập trật tự thế giới mới, với những đột phá, những thay đổi mang tính thời đại. Hệ thống kinh tế thế giới đang định hình lại, đứng trước nhiều ngã rẽ. Để tăng cường khả năng ứng phó với những biến động trong kỷ nguyên mới, thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước đã đổi mới mạnh mẽ tư duy, quan điểm phát triển kinh tế, đổi mới tư duy quản trị, điều hành, khởi xướng công cuộc đổi mới lần thứ hai-đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp.
Bộ Chính trị đã chỉ đạo quyết liệt việc tinh gọn bộ máy, phân định chức năng rõ ràng giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Việc sắp xếp lại địa giới hành chính không chỉ là bài toán tổ chức mà còn là tư duy gắn kết không gian phát triển với quản trị hiệu quả-một bước đi chiến lược trong đổi mới đồng bộ kinh tế-chính trị.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện cải cách, đổi mới về thể chế kinh tế; xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; kiến tạo, phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc là điều kiện cần và đủ, tạo điểm tựa và đòn bẩy cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Chặng đường 80 năm phát triển, từ trong gian khó, chiến tranh, bao vây, cấm vận... tư duy phát triển của Việt Nam đã không ngừng được làm mới, hoàn thiện, nâng tầm. Những thành quả này không chỉ khẳng định con đường phát triển đúng đắn mà còn là nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc vào năm 2045.