Được phát triển vào những năm 1980 như một phần của chương trình máy bay chiến thuật tiên tiến, A-12 được hứa hẹn sẽ thay thế A-6 Intruder với khả năng tàng hình hiện đại. Mặc dù đã chi hơn 5 tỷ đô la, nhưng chương trình vẫn bị chậm trễ nghiêm trọng, gặp sự nhiều cố kỹ thuật và đội vốn. Ảnh: The National Interest.
A-12 Avenger II chưa bao giờ được đưa vào hoạt động và dự án này đã bị hủy bỏ vào năm 1991. Tranh chấp pháp lý về tài trợ kéo dài trong nhiều thập kỷ đã khiến chiếc máy bay ném bom tàng hình này không thể cất cánh. Ảnh: 19FortyFive.
Hiện chỉ còn lại một mô hình duy nhất của McDonnell Douglas A-12 Avenger II đặt bên ngoài lối vào Bảo tàng Hàng không Fort Worth, cũng là minh chứng cho sự lãng phí của Lầu Năm Góc . Hơn 5 tỷ đô la đã được chi cho chương trình hàng không hải quân này nhưng không thể thu lại được gì. Ảnh: Wikipedia.
Chương trình McDonnell Douglas A-12 Avenger II ra đời vào đầu những năm 1980. Mục tiêu là phát triển một loại máy bay có công nghệ tàng hình để thay thế cho những chiếc Grumman A-6 Intruder. Hàng tỷ đô la đã được "đầu tư" vào những nỗ lực này. Ảnh: Reddit .
A-12 Avenger II được đặt tên để vinh danh máy bay ném ngư lôi Grumman TBF/TBM được sử dụng trong Thế chiến thứ hai. A-12 được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay và có khả năng bay trong mọi thời tiết. Máy bay này sẽ có khả năng mang tải trọng lớn và sử dụng công nghệ tàng hình tiên tiến hơn so với máy bay tàng hình đầu tiên của Mỹ là F-117A. Ảnh: Wikipedia.
A-12 được thiết kế với 2 chỗ ngồi, có khả năng đạt tốc độ tối đa 930 km/h và có bán kính tấn công gần 800 km. Điều đáng chú ý là thiết kế cánh bay độc đáo giúp giảm đáng kể lực cản. Phiên bản cơ bản cũng được phát triển để hoạt động như một máy bay chống hạm và hỗ trợ trên không tầm gần.
Để bảo đảm khả năng hoạt động trên tàu sân bay, cánh của A-12 được thiết kế khá gọn, sải cánh chỉ khoảng 21m. Điều đó sẽ cho phép hai máy bay xếp cạnh nhau trên các máy phóng liền kề trên sàn bay của tàu sân bay. A-12 có thể mang theo 2 tên lửa không đối không AIM-120 AMRAAM được cất giữ bên trong thên máy bay.
Mặc dù có thể bay nhanh hơn và xa hơn so với A-6, nhưng kích thước nhỏ gọn của máy bay A-12 khiến nó chỉ có thể mang theo khoảng 2.300 kg vũ khí bên trong - một con số rất khiêm tốn so với 8.000 kg mà A-6 Intruder mang theo.
Chương trình A-12 đã chậm tiến độ và vượt quá ngân sách. 7 năm phát triển và khoảng 5 tỷ đô la đã được chi tiêu, tuy nhiên máy bay vẫn chưa thể thực hiện chuyến bay đầu tiên. Một vấn đề quan trọng nữa là máy bay quá nặng và các nhà thiết kế không thể giải quyết được thực tế đó.
Ngoài ra, một vấn đề khác là việc sử dụng vật liệu tổng hợp, cũng như khả năng bảo trì. Chi phí tiếp tục tăng vọt và cuối cùng Bộ Quốc phòng Mỹ phải tuyên bố rằng, các nhà thầu đơn giản là không thể hoàn thành chương trình theo kế hoạch. Bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ là Dick Cheney đã hủy bỏ chương trình hoàn toàn vào ngày 7/1/1991.
Sau đó, các nhà thầu đã bị buộc phải trả lại khoảng 2 tỷ đô la đã chi cho chương trình. Các vấn đề pháp lý kéo dài hơn một thập kỷ và chỉ sau khi đến Tòa án Tối cao Mỹ, Bộ Quốc phòng mới thu hồi lại được tiền từ các nhà thầu.
Khi chương trình bị hủy bỏ cách đây 30 năm, đây là vụ chấm dứt hợp đồng lớn nhất trong lịch sử Bộ Quốc phòng Mỹ, A-12 đã trở nên quá đắt đỏ, đến mức tiêu tốn tới 70% ngân sách máy bay của Hải quân Mỹ chỉ trong vòng ba năm.
Lê Quang (Theo National Interest)