Thúc đẩy hệ thống tổ chức tín dụng phát triển an toàn, làm bệ đỡ cho nền kinh tế
Với vai trò quan trọng của dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), trong phiên họp chiều 23.11, các đại biểu Quốc hội thống nhất chưa thông qua dự thảo Luật này tại Kỳ họp thứ Sáu mà sẽ xem xét, thông qua tại kỳ họp gần nhất, để có đủ thời gian nghiên cứu rà soát, kỹ lưỡng, thận trọng để đạt được mục tiêu kép 'tạo cơ chế để thúc đẩy các tổ chức tín dụng phát triển, nhưng cũng phải an toàn để làm bệ đỡ cho nền kinh tế'.
Giảm dần giới hạn cấp tín dụng theo lộ trình
Tại Báo cáo về một số vấn đề lớn tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ, so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm, nhiều nội dung đã được các cơ quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo Luật lần này. Trong đó, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ tại Báo cáo số 612/BC-CP, tại dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định liên quan đến hạn chế thao túng, chi phối tổ chức tín dụng, trong đó điều chỉnh quy định về người có liên quan phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần với cổ đông cá nhân là 5% (thay vì 3% như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm) và quy định lộ trình giảm dần giới hạn cấp tín dụng xuống 10% vốn tự có đối với một khách hàng và 15% vốn tự có đối với khách hàng và người có liên quan trong 5 năm nhằm giảm thiểu tác động.
Tán thành với phương án tiếp thu, chỉnh lý nội dung trên, ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) nêu thực tế, thời gian qua, trong các tổ chức tín dụng có hiện tượng tập trung cho vay quá lớn vào một số ít khách hàng, hoặc cũng có hiện tượng cho vay doanh nghiệp “sân sau” hoặc mua trái phiếu doanh nghiệp “sân sau”. Do vậy, đại biểu nhất trí cần sửa đổi quy định về giới hạn cấp tín dụng, giảm mức dư nợ tín dụng tối đa đối với một khách hàng và người có liên quan để hạn chế tập trung vốn tín dụng cho một khách hàng hay nhóm khách hàng lớn theo lộ trình cụ thể và giao Chính phủ cụ thể hóa lộ trình này.
Về vấn đề này, ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, vấn đề quan trọng, cốt lõi hiện nay là các ngân hàng phải giám sát, quan tâm nhiều hơn đến những trường hợp “ông chủ” ngân hàng là doanh nghiệp lớn. Nhấn mạnh “trong dư luận xã hội có suy nghĩ người dân và doanh nghiệp vay rất khó khăn nhưng cổ đông và các “ông chủ” ngân hàng vay lại rất dễ”, đại biểu Phạm Văn Hòa đề nghị, các ngân hàng phải quan tâm và có các biện pháp để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn hiện tượng tập trung cho vay với một nhóm khách hàng.
ĐBQH Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) cho rằng, các quy định về giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần và giới hạn cấp tín dụng, cũng như một số biện pháp khác được quy định trong dự thảo Luật nếu thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế tình trạng thao túng, sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần công bố một báo cáo đánh giá về mức độ rủi ro trong sở hữu chéo. “Những công bố như vậy sẽ giúp cho Nhân dân, các doanh nghiệp biết được và từ đó có thể có những thông tin để phản biện lại. Nếu việc giám sát hoạt động tổ chức tín dụng biết sử dụng và phát huy tốt vai trò của Nhân dân, của nền kinh tế thì sẽ rất hiệu quả, sẽ nhận được nhiều thông tin xác đáng”, đại biểu Phạm Văn Thịnh nói.
Sở hữu chéo, chi phối và thao túng tổ chức tín dụng phải được xử lý
Quan tâm đến vấn đề tạo cơ chế để chấm dứt tình trạng sở hữu chéo theo yêu cầu tại các Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội, ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai) cho rằng, từ thực tế vụ việc của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) và thực trạng hiện nay đặt ra bộ 3 “yêu quái” đang tạo nên những rủi ro rất lớn cho hệ thống là sở hữu chéo, chi phối và thao túng tổ chức tín dụng cần phải tiếp tục được nhận diện để xử lý, loại trừ.
“Sở hữu chéo, chi phối và thao túng trong là các thủ thuật rất tinh vi và thường là vô hình. Tuy nhiên với đối tượng vô hình và thường xuyên biến đổi này ta lại dùng các công cụ như Luật đang thiết kế (giảm tỷ lệ sở hữu cổ phẩn, giảm hạn mức cấp tính dụng và mở rộng đối tượng không được đảm nhiệm chức vụ). Việc lấy cái hữu hình để trị cái vô hình sẽ khó mang lại hiệu quả như mong muốn".
Nhấn mạnh như vậy, đại biểu Trịnh Xuân An đồng thời chỉ rõ, cốt lõi của hệ thống ngân hàng Việt Nam nằm ở vấn đề quản trị. Để chống sở hữu chéo, thao túng, chi phối trong hệ thống ngân hàng thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là nào chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Do vậy, dự thảo Luật cần xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng.
Để làm được việc này, đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị, dự thảo Luật phải quy định cụ thể 2 vấn đề. Một là, minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu; xác định nghĩa vụ công bố thông tin đối với cổ đông (cả tổ chức và cá nhân) và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng trên một mức cụ thể. Hai là, kiểm soát được dòng tiền, nguồn tiền góp vốn thông qua cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt và áp dụng kiểm soát dữ liệu cá nhân. Đại biểu cũng đề nghị, cần cân nhắc giữ quy định như hiện hành về tỷ lệ sở hữu cổ phần tại Điều 63 và giới hạn cấp tín dụng ở Điều 136 bởi việc xác định lộ trình như đề xuất của Chính phủ chưa thuyết phục và cần được đánh giá thêm.
Đề cập câu chuyện nhờ người khác đứng tên, đại biểu Trịnh Xuân An chỉ rõ, điểm c khoản 1 Điều 62 quy định nghĩa vụ của cổ đông “không được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng dưới tên của cá nhân, pháp nhân khác dưới mọi hình thức, trừ trường hợp ủy thác theo quy định của pháp luật” là "rất không cụ thể, không nhận diện được như thế nào là góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng dưới tên của cá nhân, pháp nhân khác ”. Thực tế triển khai quy định này trong thực tế sẽ như thế nào? Cơ sở, phương pháp, cách thức nào để phòng ngừa, đặc biệt là trước ma trận mà ta hay gọi một cách hoa mỹ là “hệ sinh thái” do các “ông bầu” hay các “madam” dựng lên để chi phối Ngân hàng?
Giải trình vấn đề được các đại biểu Quốc hội đưa ra, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng, nếu chỉ có quy định giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần và giới hạn cấp tín dụng thì sẽ không thể xử lý triệt để vấn đề sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng. Các quy định này được đưa ra tại dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chủ yếu nhằm tạo căn cứ để xử lý các cá nhân, tổ chức, ngân hàng thương mại vi phạm. Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, vấn đề quan trọng nhất là tổ chức thực hiện, nên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành ngân hàng và các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương để ngăn chặn tình trạng đứng tên sở hữu hộ cổ phần được đại biểu Quốc hội đưa ra.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, giám sát, nhất là củng cố bộ phận kiểm soát, kiểm toán của từng tổ chức tín dụng. “Chính bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ là người giám sát tối cao đối với hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban điều hành ở mỗi tổ chức tín dụng”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định.
Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) là dự án luật rất khó, phức tạp, liên quan đến an ninh tài chính quốc gia, an ninh an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, 16 ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội tại phiên họp chiều 23.11 đều thống nhất, chưa thông qua dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ Sáu, mà sẽ xem xét, thông qua tại kỳ họp gần nhất, để có đủ thời gian nghiên cứu rà soát, kỹ lưỡng, thận trọng để thực hiện được mục tiêu kép là "tạo cơ chế để thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển nhưng cũng phải an toàn để làm bệ đỡ cho nền kinh tế".