Tìm lối mở cho điện sạch

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đặt mục tiêu cao, cùng với xu hướng điện hóa phương tiện giao thông ngày càng rõ nét, ngành điện Việt Nam đang đối diện áp lực lớn.

Kỳ 1: Nguy cơ thiếu điện hiện hữu

Ngành điện đang đứng trước áp lực chưa từng có do nhu cầu điện tăng mạnh, trong khi tiến độ nguồn điện chậm, khó khăn huy động vốn và cơ chế giá điện. Để ổn định nguồn điện, đáp ứng nhu cầu thực tế và mục tiêu tăng trưởng, việc sớm có giải pháp đồng bộ, sớm tháo gỡ những nút thắt vốn, cơ chế trở thành yếu tố quyết định.

Nguồn dự phòng thấp, tiềm ẩn rủi ro

Ông Nguyễn Văn Dương, Viện Năng lượng (Bộ Công thương) cho biết, đến hết năm 2024, tổng công suất đặt toàn hệ thống (không tính điện mái nhà) mới đạt khoảng 79GW, tức 53% mục tiêu 150GW vào năm 2030.

Việc đảm bảo cấp điện các năm 2026-2029 sẽ chủ yếu dựa vào các nguồn có khả năng xây dựng nhanh điện gió, mặt trời...

Việc đảm bảo cấp điện các năm 2026-2029 sẽ chủ yếu dựa vào các nguồn có khả năng xây dựng nhanh điện gió, mặt trời...

"Với tỷ lệ này, hệ thống điện đang trong tình trạng dự phòng thấp, tiềm ẩn rủi ro lớn về an ninh năng lượng", ông Dương nói.

Theo ông Dương, các nguồn năng lượng tái tạo triển khai còn ì ạch. Trong đó, điện gió trên bờ mới đạt 19%, thủy điện vừa và lớn đạt 42%, thủy điện nhỏ đạt 36%.

Các dự án lớn dự kiến vận hành giai đoạn 2026-2030 như: Nhiệt điện LNG, nhiệt điện khí nội, nguồn điện linh hoạt, pin lưu trữ, thủy điện tích năng hay điện gió ngoài khơi đều chậm tiến độ.

Nguyên nhân được chỉ ra là sự chậm trễ trong ban hành kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII. Quy hoạch này đã được phê duyệt từ tháng 5/2023, song đến tận tháng 4/2024 kế hoạch triển khai mới chính thức ban hành. Khoảng trống gần một năm này khiến nhiều dự án bị "đóng băng". Nhà đầu tư cũng lúng túng vì thiếu hướng dẫn, càng làm tình trạng đình trệ.

Năng lượng sạch là trung tâm chiến lược

Trước yêu cầu tăng trưởng GDP năm 2025 trên 8% và giai đoạn 2026-2030 phấn đấu đạt mức hai con số, nhu cầu điện năng được dự báo tăng gấp 1,5 lần, bình quân mỗi năm 12-16%. Đây chính là lý do Chính phủ yêu cầu điều chỉnh Quy hoạch điện VIII để bảo đảm an ninh cung cấp điện, đồng thời giữ định hướng giảm phát thải carbon.

Đến năm 2050, điện mặt trời dự kiến đạt 46.459-73.416MW, tăng thêm 29.787-56.800MW so với hiện nay.

Đến năm 2050, điện mặt trời dự kiến đạt 46.459-73.416MW, tăng thêm 29.787-56.800MW so với hiện nay.

Theo bản điều chỉnh công bố tháng 4/2025, Việt Nam cần nâng công suất từ khoảng 82GW hiện nay (tính cả điện mái nhà) lên 183-236GW vào 2030. Đến năm 2050, con số này lên tới 775-839GW, tức gấp gần 10 lần hiện tại.

Điểm nhấn là sự gia tăng tỷ trọng năng lượng sạch. Nếu không tính thủy điện lớn, các nguồn tái tạo sẽ chiếm 28-36% vào 2030 và 74-75% vào 2050. Điện mặt trời dự kiến đạt 46.459-73.416MW, tăng thêm 29.787-56.800MW so với hiện nay; điện gió trên bờ và ven biển đạt 26-38GW; điện gió ngoài khơi được đặt mục tiêu 6GW.

Tuy nhiên, để hiện thực hóa, cần tới 600-1.100 dự án điện mặt trời và 400-640 dự án điện gió. Giới chuyên gia nhận định, đây là khối lượng khổng lồ, đặt ra thách thức về nhân lực, đấu thầu và giám sát.

Điện hạt nhân cũng được đưa trở lại lộ trình phát triển giai đoạn 2030-2035, với hai nhà máy Ninh Thuận 1 và 2, tổng công suất 4.000-6.400MW. Tầm nhìn đến 2050, hệ thống cần khoảng 8.000MW nguồn hạt nhân, có thể tăng lên nếu nhu cầu đòi hỏi.

Xe điện - cú hích mới gia tăng phụ tải

Một động lực mới khiến áp lực điện càng rõ rệt là xu hướng điện hóa phương tiện giao thông. Hà Nội, TP.HCM đã lên lộ trình phát triển hạ tầng sạc, khuyến khích người dân dùng xe điện, đồng thời dự kiến hạn chế dần xe xăng tại trung tâm từ 2028-2030.

Ngân hàng Thế giới tính toán, đến 2035, phần lớn chuyển đổi diễn ra ở xe máy - loại dùng pin nhỏ, quãng đường ngắn nên chưa tạo áp lực quá lớn. Nhưng từ sau 2035, khi ô tô điện, kể cả xe tải, phát triển nhanh chóng, nhu cầu điện sẽ tăng vọt.

Dự báo vốn đầu tư để tăng sản lượng điện phục vụ sạc xe điện giai đoạn 2024-2030 vào khoảng 6-9 tỷ USD; giai đoạn 2031-2040 là 59 tỷ USD; và 2041-2050 lên tới 200 tỷ USD. Nếu không chuẩn bị cơ chế giá điện theo thời gian sử dụng (TOU) và hạ tầng sạc thông minh, áp lực sẽ dồn vào giờ cao điểm, đặc biệt ở miền Bắc vào mùa khô.

Hiện tại, Quy hoạch điện VIII chưa xây dựng phương án riêng cho xe điện, mà gộp chung trong dự báo nhu cầu điện theo tăng trưởng GDP. Điều này có thể tiềm ẩn nguy cơ thiếu hụt cục bộ nếu tốc độ điện hóa phương tiện nhanh hơn dự kiến.

Giải bài toán vốn

Theo tính toán, tổng vốn đầu tư cho ngành điện giai đoạn 2026-2030 là 136,3 tỷ USD, tức mỗi năm cần 27,6 tỷ USD. Đây là con số khổng lồ nếu so với năng lực tài chính hiện tại.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định, điện lực Nhà nước chỉ có thể tập trung vào vài dự án trọng điểm như LNG, điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi và lưới điện cốt lõi. Phần lớn còn lại sẽ trông chờ vào khu vực tư nhân.

Thực tế, TS Nguyễn Anh Tuấn, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) dẫn chứng, giai đoạn 2011-2020, EVN và EVNNPT chỉ thu xếp được khoảng 1 tỷ USD/năm cho lưới điện, trong khi nhu cầu là 3,45 tỷ USD/năm. Theo ông, nếu không có giải pháp đột phá, việc huy động vốn 5 năm tới sẽ rất khó khăn.

VDB kiến nghị, cần chiến lược toàn diện bao gồm: hoàn thiện pháp lý, minh bạch cơ chế giá; đa dạng hóa kênh huy động (trái phiếu xanh, vốn quốc tế, tài chính sáng tạo); đầu tư lưới điện thông minh và lưu trữ năng lượng, đồng thời tận dụng tối đa sự hỗ trợ từ Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP).

Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Năng lượng và Tăng trưởng xanh chỉ ra: giá bán lẻ điện hiện chưa phản ánh đúng chi phí, trong khi EVN đang gánh khoản lỗ lũy kế hơn 44.000 tỷ chưa phản ánh vào giá. Điều này khiến các tổ chức tài chính e ngại, làm suy giảm khả năng huy động vốn.

"Các nhà đầu tư tư nhân và các tổ chức tài chính vẫn chưa có niềm tin với thị trường điện cạnh tranh của Việt Nam, dẫn tới các yêu cầu phi thị trường trong đàm phán hợp đồng mua bán điện, ví dụ như yêu cầu cam kết sản lượng điện tối thiểu > 80%", ông Sơn nói.

Ngoài ra, Khoản 2 Điều 49 Nghị định 115 năm 2024 quy định, đối với dự án đầu tư xây dựng công trình năng lượng, hiệu quả đầu tư được đánh giá dựa trên mức trần giá điện do Bộ Công thương ban hành và nguyên tắc giá thống nhất với bên mua điện trong hồ sơ mời thầu. Nhưng thực tế, các nhà đầu tư tư nhân vẫn gặp khó khăn đàm phán PPA với EVN, đặc biệt về giá điện, khiến tiến độ dự án bị kéo dài…

Các chuyên gia đều chung quan điểm: muốn đạt mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam không thể chỉ dựa vào khu vực Nhà nước. Do đó, cần tạo lập môi trường minh bạch, thuận lợi, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và quốc tế tham gia đầu tư, đặc biệt ở năng lượng tái tạo và hạ tầng lưới điện.

Cùng đó, phải xây dựng cơ chế giá điện bảo đảm thu hồi chi phí và lợi nhuận hợp lý, khuyến khích cạnh tranh trong sản xuất, truyền tải, phân phối. Việt Nam cũng cần thúc đẩy công nghiệp chế tạo thiết bị điện, hợp tác nghiên cứu và kết nối lưới với các nước láng giềng.

Bức tranh năng lượng sạch đặt ra nhiều thử thách. Nhưng nếu tháo gỡ được nút thắt vốn, cơ chế và niềm tin của nhà đầu tư, đây không chỉ là chìa khóa cho an ninh năng lượng, mà còn là bước tiến quan trọng trên con đường phát triển kinh tế xanh, bền vững.

Hồng Hạnh

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/tim-loi-mo-cho-dien-sach-192250916212730434.htm