Xã hội hóa nước sạch nông thôn, hướng tới 80% dân số dùng nước đạt chuẩn 2030
Sáng 16/10, tại TP.HCM, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức Diễn đàn 'Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh'.
Cần một cú hích cho nước sạch nông thôn
Phát biểu kết luận diễn đàn, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhấn mạnh: “Hiện mới khoảng 58% người dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia, trong đó chỉ 8% dùng nước từ công trình cấp nước tập trung. Muốn đạt 80% vào năm 2030, chúng ta cần thêm nhiều giải pháp mạnh mẽ, đặc biệt là thúc đẩy đầu tư xã hội hóa”.

Diễn đàn vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh
Theo ông Văn Anh, lĩnh vực nước sạch nông thôn dù đã nhận được sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về nguồn lực, cơ chế và mô hình quản lý. Diễn đàn lần này ghi nhận 22 ý kiến, câu hỏi trực tiếp cùng nhiều kiến nghị từ các địa phương, thể hiện sự quan tâm lớn đến mục tiêu bảo đảm cấp nước bền vững gắn với an sinh xã hội. “Đây không chỉ là nhiệm vụ về hạ tầng kỹ thuật mà là vấn đề phát triển con người và xây dựng nông thôn văn minh”, ông nói.
Miền Bắc đi trước, miền Trung và Tây Nguyên còn nhiều thách thức
Phân tích sự chênh lệch giữa các vùng miền, ông Lương Văn Anh cho rằng miền Bắc có nền tảng cấp nước tốt hơn nhờ đầu tư sớm, đồng bộ và nhận thức cộng đồng cao. Người dân quen dùng nước đạt chuẩn, sẵn sàng đóng góp chi phí, tạo thuận lợi cho xã hội hóa.
Trong khi đó, nhiều tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gặp khó khăn do địa hình phức tạp, dân cư phân tán, chi phí đầu tư cao khiến doanh nghiệp ngại tham gia. “Những nơi thuận lợi thì đã đầu tư xong, còn vùng khó thì chưa ai mặn mà”, ông nhận định.
Ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, cho biết hiện còn khoảng 53.500 hộ dân ĐBSCL không thể cấp nước tập trung do địa bàn xa nguồn nước ngọt. Mặc dù Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai nhiều dự án cấp nước sạch ở vùng này, nhưng hạn chế về nguồn nước và kinh phí khiến nhiều hộ dân vẫn phải dựa vào nước dự trữ.
Nhờ các giải pháp phòng, chống hạn mặn, số hộ dân thiếu nước sinh hoạt đã giảm mạnh – từ 200.000 hộ (2015-2016) xuống còn 76.000 hộ (2023-2024). Tuy nhiên, để đạt mục tiêu 80% hộ nông thôn được tiếp cận nước an toàn vào năm 2030, cần thêm chính sách hỗ trợ và cơ chế huy động vốn tư nhân.
Hướng tới “nền kinh tế nước” và biểu giá nước linh hoạt
Các chuyên gia tại diễn đàn thống nhất rằng, nước cần được nhìn nhận như một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, cho rằng việc tính đúng, tính đủ giá nước tương tự như biểu giá điện sẽ giúp khuyến khích tiết kiệm, giảm thất thoát và thu hút nhà đầu tư tư nhân.
Ông cũng đề xuất áp dụng các công cụ kinh tế như thu phí xả thải, thuế tài nguyên nước và thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý, giám sát khai thác. “Khi giá nước phản ánh đúng giá trị thật, người dân sẽ sử dụng tiết kiệm hơn, còn doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư hơn”, ông Mạnh nói.

Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Công ty Khai thác Công trình Thủy lợi miền Nam, cho biết các hệ thống thủy lợi lớn như hồ Dầu Tiếng – Phước Hòa đang được vận hành theo hướng đa mục tiêu, vừa cấp nước sinh hoạt, vừa kết hợp phát điện, phát triển du lịch sinh thái, điện mặt trời để tăng nguồn thu và giảm gánh ngân sách.
Theo ông Việt Anh, mức giá dịch vụ thủy lợi hiện khoảng 900 đồng/m³, và sắp tới có thể điều chỉnh lên 1.100 – 1.300 đồng/m³ để đảm bảo nguồn lực cho bảo trì công trình. Việc khai thác hiệu quả nguồn nước và nguồn thu sẽ giúp ngành thủy lợi chủ động hơn trong ứng phó biến đổi khí hậu, nhất là vùng ĐBSCL.
Tại phần tọa đàm, nhà báo Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, cùng các chuyên gia khẳng định, chuyển đổi số sẽ là hướng đi tất yếu để nâng cao hiệu quả vận hành, giám sát và bảo trì hệ thống cấp nước. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, cần có kinh phí đầu tư, đào tạo nhân lực và hạ tầng công nghệ phù hợp.
Kết luận diễn đàn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, ông Lương Văn Anh khẳng định: “Xã hội hóa là trọng tâm, là động lực chính để bảo đảm mọi người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch. Cần sự vào cuộc đồng bộ của các Bộ, ngành, doanh nghiệp và cộng đồng để đạt mục tiêu 80% dân số nông thôn dùng nước đạt chuẩn vào năm 2030”.

Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi
Ông Lương Văn Anh cũng cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang rà soát, hoàn thiện nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, tháo gỡ các vướng mắc trong đầu tư công và bàn giao công trình, đồng thời sẽ ban hành bộ chỉ số theo dõi, đánh giá chương trình nước sạch trong tháng 10 hoặc 11 tới.
Để mỗi giọt nước đến được với người dân vùng sâu, vùng xa cần không chỉ là công trình, mà là sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, cùng một tầm nhìn dài hạn về “nền kinh tế nước” nơi mỗi nguồn nước đều được trân trọng, quản lý và sử dụng hiệu quả.