75% người mắc ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn muộn
Khoảng 75% người bệnh được phát hiện mắc ung thư phổi ở giai đoạn muộn, khiến tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ đạt khoảng 14,8%. Việc tầm soát sớm các bệnh lý phổi rất quan trọng để có chiến lược điều trị kịp thời, nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại hội thảo.
Đây là những thông tin được Bộ Y tế chia sẻ tại Hội nghị Chương trình tiếp cận sức khỏe phổi Việt Nam tăng cường tiếp cận y tế toàn diện trong lĩnh vực sức khỏe phổi sáng 26/3.
Ung thư phổi đứng thứ hai về số ca tử vong tại Việt Nam
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, các bệnh không lây nhiễm, đặc biệt là các bệnh lý về phổi như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), hen phế quản và ung thư phổi, đã và đang trở thành nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật tại Việt Nam.
Theo ước tính, tỷ lệ mắc COPD ở người trên 40 tuổi tại nước ta lên đến 4,2%, thuộc nhóm cao nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tỷ lệ hen phế quản là 4,1%, nhưng chỉ khoảng 29% người bệnh được điều trị dự phòng và chưa đến 40% được kiểm soát tốt.
Đặc biệt, ung thư phổi, với hơn 24.000 ca mắc mới mỗi năm, hiện đứng thứ ba về số ca mắc mới nhưng đứng thứ hai về số ca tử vong tại Việt Nam. Khoảng 75% người bệnh được phát hiện ở giai đoạn muộn, khiến tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ đạt khoảng 14,8%.
Tiến sĩ Trần Quốc Bảo, Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) chiếm tỷ lệ 45% trong số các bệnh không lây nhiễm. Tỷ lệ người đã từng được chẩn đoán mắc COPD hiện đang sử dụng thuốc điều trị chỉ đạt 25,6%, là tỷ lệ tương đối thấp.

Hội nghị Chương trình tiếp cận sức khỏe phổi Việt Nam có sự tham gia của nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực phổi.
Chia sẻ về những rào cản trong quản lý bệnh phổi mạn tính, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Giáp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, bệnh nhân thiếu kiến thức về thuốc bệnh như thường tự ý sử dụng corticoid toàn thân để điều trị hoặc sử dụng thuốc đông y, thực phẩm chức năng; lo lắng quá mức về tác dụng của thuốc hoặc chỉ muốn sử dụng giãn phế quản tác dụng ngắn.
Đối với bệnh hen, có khoảng 83,5% bệnh nhân hen cũng thiếu kiến thức về bệnh, trong đó 30% nhầm lẫn giữa thuốc kiểm soát và giảm triệu chứng; 68% mô tả sai về kỹ thuật hít; 52% bệnh nhân tuyên bố hen có thể chữa khỏi.
Với ung thư phổi, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Hùng Kiên, Phó Giám đốc Bệnh viện K cho hay, tại Việt Nam, việc triển khai sàng lọc ung thư phổi hiện có nhiều khó khăn do thiếu trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, chuyên môn; nhận thức của người dân và nhân viên y tế chưa đầy đủ; bảo hiểm y tế chưa chi trả cho các phương pháp sàng lọc. Về thuốc điều trị, một số thuốc không sẵn có tại cơ sở y tế nên khó điều trị cá thể hóa.
Phó Giám đốc Bệnh viện K cho biết, ở giai đoạn sớm, ung thư phổi không có triệu chứng hoặc nhầm lẫn với các triệu chứng bệnh lý hô hấp khác, dễ bỏ sót. Khi có các triệu chứng chứng hô hấp, u xâm lấn thành ngực, hội chứng chứng chèn ép, triệu chứng di căn... thì bệnh nhân đã ở giai đoạn muộn.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Hùng Kiên, Phó Giám đốc Bệnh viện K chia sẻ thông tin về bệnh ung thư phổi.
"Trung bình, bệnh viện ghi nhận khoảng 12.000 lượt khám/năm liên quan bệnh lý u phổi; điều trị khoảng 3.200 bệnh nhân/năm. Với hơn 70% bệnh nhân đến ở giai đoạn muộn, tỷ lệ sống sau 5 năm rất thấp. Chúng ta cần phải tăng cường sàng lọc chẩn đoán ở giai đoạn sớm của bệnh.
Việt Nam hiện chưa có quy trình chuẩn trong sàng lọc ung thư phổi sử dụng chụp CT liều thấp trên trên nhóm người nguy cơ cao tại cộng đồng. Do đó, chúng ta cần có chương trình quốc gia về tầm soát ung thư phổi", ông Kiên nói.
Tầm soát ung thư phổi được khuyến cáo cho người có nguy cơ cao hằng năm hoặc mỗi 2 năm. Người có nguy cơ cao được xác định dựa vào tuổi, tình trạng hút thuốc và tiền sử ung thư phổi trong gia đình: Tuổi từ 50-75; có lịch sử hút thuốc hơn 20 gói năm; người không hút thuốc tuổi từ 50-75, có tiền sử ung thư phổi ở người thân bậc một.
Mục tiêu phát hiện sớm 40% số ca ung thư phổi
Ngành y tế đã chủ động xây dựng và triển khai nhiều giải pháp trong khuôn khổ Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015-2025. Theo chiến lược này, các mục tiêu quan trọng được đặt ra như phát hiện sớm 50% số người mắc bệnh phổi không do thuốc lá, điều trị hiệu quả tại các cơ sở y tế; kiểm soát tốt trên 20% số người bệnh và phát hiện sớm 40% số ca ung thư phổi.
Trước những thách thức và cơ hội trong phát hiện sớm các bệnh lý phổi, Chương trình Sức khỏe Phổi Việt Nam giai đoạn 2025-2027 như một sáng kiến hợp tác công-tư, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: tiếp cận toàn diện, lấy người dân làm trung tâm và ứng dụng khoa học công nghệ.
Chương trình dự kiến được thiết kế với các hợp phần cụ thể như: Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng, tiêu biểu như chiến dịch “CareMe – Yêu lấy phổi”; nâng cao năng lực cán bộ y tế tuyến cơ sở thông qua đào tạo, hướng dẫn lâm sàng và mô hình quản lý bệnh phổi; thúc đẩy tầm soát, chẩn đoán sớm, điều trị hiệu quả các bệnh phổi không lây nhiễm; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn trong theo dõi và quản lý bệnh; và phối hợp đa ngành thông qua cơ chế “Đối tác vì một hệ thống y tế bền vững”, nhằm thúc đẩy công bằng y tế, tiếp cận bình đẳng, hành động vì khí hậu và y tế xanh.

Ông Atul Tandon, Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam phát biểu.
AstraZeneca Việt Nam đã có nhiều chương trình hợp tác với Bộ Y tế trong tăng cường tiếp cận y tế toàn diện trong lĩnh vực sức khỏe phổi, mang lại kết quả khả quan và mang lợi ích đến cho gần 1 triệu người trên toàn quốc.
Theo ông Atul Tandon, Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam, các bệnh về phổi, bao gồm COPD, hen suyễn và ung thư phổi, là những thách thức đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng. Các yếu tố như hút thuốc, ô nhiễm môi trường, phơi nhiễm nghề nghiệp và khuynh hướng di truyền góp phần vào tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ mắc bệnh này ngày càng tăng cao.
Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam khẳng định đơn vị sẽ cung cấp các phương pháp điều trị sáng tạo không chỉ chuyển đổi kết quả điều trị cho bệnh nhân mà còn tăng khả năng chữa khỏi bệnh. "Chúng tôi cam kết hỗ trợ hệ thống y tế trong việc đưa ra các sáng kiến toàn diện, mang tính chuyển đổi để giải quyết các vấn đề quan trọng này bằng cách tận dụng khoa học và công nghệ thông qua các biện pháp can thiệp có mục tiêu, chẳng hạn như sàng lọc và phát hiện sớm, cùng với các chiến lược chăm sóc sức khỏe toàn diện", ông Atul Tandon nói.