Bản sắc, giá trị của nghệ thuật dân gian Tày

Dân tộc Tày, với hơn 1,2 triệu người sinh sống chủ yếu ở miền núi phía Bắc, là cộng đồng giàu truyền thống văn hóa với đời sống tinh thần phong phú. Trong đó, nghệ thuật không chỉ là phương tiện biểu đạt tình cảm, mà còn là cầu nối giữa con người với thiên nhiên và thế giới siêu nhiên, phản chiếu tâm hồn người Tày qua bao thế hệ.

Từ đời sống thường nhật đến giá trị nhân loại

Các loại hình nghệ thuật của người Tày mang tính nguyên hợp, kết hợp âm nhạc, vũ đạo, văn chương và nghi lễ, tạo nên bức tranh văn hóa sống động và đa sắc.

Theo nhà nghiên cứu Bùi Lưu Phi Khanh, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, âm nhạc dân gian Tày hiện có 4 hình thức chủ yếu: hát lượn, hát khắp coọi, hát quan làng và hát ru con.

Trong đó, hát lượn là dân ca giao duyên, nơi nam nữ thanh niên dùng lời ca để trao gửi tình cảm, ước hẹn và khát vọng tình yêu. Lượn không chỉ là âm nhạc, mà còn là một ngôn ngữ tinh tế, phản ánh sự gắn bó mật thiết giữa con người và thiên nhiên.

Khắp coọi cũng là tiếng lòng của tuổi trẻ, nhưng bên cạnh những lời ca đắm say, còn chứa đựng tri thức dân gian về tự nhiên, những lời răn dạy về ứng xử và triết lý nhân sinh.

Đa sắc di sản nghệ thuật của đồng bào Tày. Ảnh: Th. Nguyên

Đa sắc di sản nghệ thuật của đồng bào Tày. Ảnh: Th. Nguyên

Hát quan làng là loại hình nghệ thuật ứng đối của những người hát quan làng, thường là nam giới, thường diễn ra trong nghi lễ cưới hỏi theo 3 cung đoạn: đón/xin dâu, nộp dâu và đưa dâu. Đây là cuộc đối thoại bằng giọng hát mộc mạc giữa hai gia đình, thể hiện sự kính trọng và tuân thủ lễ nghi truyền thống. Quan làng không chỉ là âm nhạc, mà còn là nghi thức xã hội, phản ánh sự coi trọng gia đình và cộng đồng trong văn hóa Tày.

Hát ru con lại là âm điệu của đời sống thường nhật. Những câu hát ngắn gọn, mộc mạc, mang tính đồng dao nhưng chứa đựng sự êm ái, phản ánh tình thương của người mẹ Tày. Chính sự giản dị ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ bằng giấc ngủ bình yên qua bao thế hệ.

Âm nhạc dân gian là hơi thở cuộc sống, còn Then chính là sự thăng hoa trọn vẹn, là kết tinh rực rỡ của toàn bộ tinh hoa nghệ thuật Tày, nơi mọi yếu tố được hòa quyện và nâng tầm. “Then” theo tiếng Tày nghĩa là “Trời”, là hình thức diễn xướng âm nhạc dân gian mang tính tâm linh, gắn kết con người với thế giới siêu nhiên. Then được trình diễn trong nhiều dịp quan trọng: cầu an, cầu mùa, cúng chữa bệnh, giải hạn, mừng thọ. Nhạc cụ chủ yếu là đàn tính - loại đàn có âm thanh ấm áp, dẫn dắt hành trình của thầy Then lên cõi trời để cầu xin may mắn.

Then là sự kết hợp của âm nhạc, vũ đạo, lời ca và trang phục. Năm 2019, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, khẳng định giá trị toàn cầu của loại hình nghệ thuật này.

Giữ gìn, lan tỏa văn hóa Tày

Sự thay đổi trong đời sống xã hội, việc suy giảm sử dụng tiếng mẹ đẻ, cùng xu hướng giản lược nghi lễ đã khiến nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc Tày có nguy cơ mai một. Hát quan làng ít được thực hành trong hôn lễ hiện đại. Hát lượn, khắp coọi không còn phổ biến trong giới trẻ. Ngay cả lời ru con cũng dần bị thay thế bởi âm nhạc hiện đại và công nghệ.

Nghệ thuật của đồng bào Tày đang được nỗ lực gìn giữ và lan tỏa. Ảnh: baotintuc.vn

Nghệ thuật của đồng bào Tày đang được nỗ lực gìn giữ và lan tỏa. Ảnh: baotintuc.vn

Tuy nhiên, đã có những nỗ lực bảo tồn đáng ghi nhận. Việc đưa lượn, khắp coọi, múa rối cạn vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, và Then được UNESCO ghi danh, đã tạo động lực mạnh mẽ cho cộng đồng trong hành trình này.

Nhiều địa phương tổ chức hội diễn, lớp truyền dạy, xuất bản tài liệu để lưu giữ nghệ thuật. Nghệ thuật Tày cũng được đưa ra khỏi phạm vi bản làng, biểu diễn tại các không gian văn hóa lớn, giúp công chúng cả nước tiếp cận.

Theo các chuyên gia, để bảo tồn và phát huy nghệ thuật Tày, trước hết, việc khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong thế hệ trẻ vô cùng quan trọng. Các chương trình ngoại khóa, trại hè văn hóa, hay những cuộc thi hát dân ca, múa rối cạn dành cho học sinh, sinh viên... sẽ giúp các em tiếp cận và thêm hiểu về nghệ thuật truyền thống.

Song song đó, đẩy mạnh tư liệu hóa và truyền nghề một cách hệ thống. Các nghệ nhân dân gian - những “báu vật nhân văn sống” - cần được hỗ trợ để chuyển giao một cách bài bản tri thức và kỹ năng. Việc ghi âm, ghi hình, số hóa các làn điệu dân ca sẽ tạo kho dữ liệu bảo tồn lâu dài. Các nền tảng trực tuyến như website, ứng dụng di động, kênh YouTube hay podcast trở thành nơi lưu giữ và lan tỏa nghệ thuật Tày đến đông đảo công chúng...

Nếu kết hợp hài hòa giữa truyền thống và công nghệ, giữa bảo tồn và sáng tạo, nghệ thuật của dân tộc Tày sẽ được gìn giữ và lan tỏa, trở thành nguồn lực mạnh mẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giúp bản sắc dân tộc trường tồn trong bối cảnh toàn cầu hóa.

(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)

Thảo Nguyên

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/ban-sac-gia-tri-cua-nghe-thuat-dan-gian-tay-10400657.html