Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa

Miền núi, biên giới tỉnh Thanh Hóa-nơi cư trú lâu đời của đồng bào Mường, Thái, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú... là không gian văn hóa đặc biệt phong phú, nơi hội tụ, giao thoa và kết tinh những giá trị đặc sắc của các tộc người. Trước làn sóng hiện đại hóa, cơ chế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của đời sống mới, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống càng trở nên cấp thiết. Không chỉ là nhiệm vụ bảo vệ di sản, đây còn là trách nhiệm gìn giữ nền tảng tinh thần bền vững cho cộng đồng cư dân nơi biên viễn xứ Thanh.

Nghề dệt thổ cẩm, nghề đan lát được quan tâm bảo tồn và đưa vào hoạt động du lịch cộng đồng. Ảnh: Thủy Lê

Nghề dệt thổ cẩm, nghề đan lát được quan tâm bảo tồn và đưa vào hoạt động du lịch cộng đồng. Ảnh: Thủy Lê

Không gian văn hóa đa sắc

Các dân tộc Mường, Thái, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú... sinh sống từ bao đời nay tại khu vực miền núi và biên giới tỉnh Thanh Hóa đã tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc, giàu chiều sâu và bản sắc. Trong đó, người Mường là tộc người có số dân đông nhất, phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao như Thạch Thành, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy, Bá Thước... Riêng ở Cẩm Thủy, người Mường chiếm tới gần 60% dân số, góp phần định hình rõ nét chân dung văn hóa đặc thù của vùng đất này.

Trải qua nhiều biến thiên lịch sử, cộng đồng các tộc người tại đây không chỉ lưu giữ trọn vẹn những giá trị truyền thống, mà còn dung nạp thêm những ảnh hưởng từ dòng di cư phía Bắc, sự giao thoa với văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc, Thượng Lào, Nghệ An. Chính sự hòa quyện ấy làm nên bản sắc độc đáo của văn hóa miền Tây Thanh Hóa, vừa mang đặc trưng xứ Thanh, vừa phản ánh tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Điển hình, nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Thanh Hóa là một minh chứng sống động cho sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật và hoa văn của người Thái ở vùng Tây Bắc, Thượng Lào, Nghệ An và cả người Mường ở Thanh Hóa, Hòa Bình. Những sản phẩm như váy hoa, vỏ chăn, khăn, túi... vừa phục vụ đời sống, vừa trở thành hàng hóa mang giá trị văn hóa cao. Nếu nghề dệt là “đặc quyền” của phụ nữ, thì đan lát lại là địa hạt của đàn ông. Từ tre, nứa, mây, giang, họ đã tạo ra hàng loạt vật dụng phục vụ sinh hoạt và sản xuất như: giỏ, sọt, thúng mủng... cho tới những cấu kiện dựng nhà truyền thống.

Không chỉ giàu nghề thủ công, đời sống văn hóa tinh thần của người Thái còn phong phú với hệ thống lễ hội đa dạng. Các lễ hội truyền thống như: Mường Ca Da (Quan Hóa) thờ tướng Khằm Ban; Căm Mương (Bá Thước) thờ các danh nhân như Vua Lê Lợi, Hà Công Lục, Hà Văn Nho; Mường Xia (Quan Sơn) gắn với tướng quân Tư Mã Hai Đào... đều phản ánh chiều sâu tín ngưỡng và truyền thống tri ân của đồng bào. Đặc biệt, các lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy, Phấn Chá, Xăng Khan với nghi thức cầu sức khỏe, múa hát quanh cây hoa là nét đẹp văn hóa độc đáo chỉ có ở cộng đồng Thái xứ Thanh.

Văn hóa Mường, nền trầm tích của xứ Thanh

Trong các tộc người sinh sống tại Thanh Hóa, người Mường được xem là một trong những cộng đồng có quá trình cư trú lâu dài và để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong nền văn hóa địa phương. Văn hóa Mường ở xứ Thanh là kho tàng đồ sộ, kết tinh trí tuệ, tâm hồn và bản sắc tộc người qua nhiều thế hệ.

Một trong những giá trị tiêu biểu nhất là sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, đây là áng Mo sử thi đồ sộ với trên 20.000 câu, phản ánh cách người Mường lý giải về vũ trụ, tự nhiên, con người, vòng đời, lễ tục, tín ngưỡng và phương thức sản xuất buổi bình minh lịch sử. Đây không chỉ là di sản quý của cộng đồng Mường, mà còn là nguồn tư liệu độc đáo giúp giới nghiên cứu hiểu rõ hơn về nền văn minh bản địa của cư dân Việt cổ. Bên cạnh đó, cồng chiêng, hát xường, pồn pôông... là những loại hình diễn xướng dân gian độc đáo, phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người Mường. Mỗi bài xường, mỗi điệu pồn pôông đều gửi gắm tình yêu lao động, tình yêu cuộc sống, ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Chúng không chỉ mang giá trị nghệ thuật, mà còn là “nhật ký” sống động ghi lại tiến trình lịch sử của tộc người.

Chính hệ thống di sản phi vật thể đa dạng này tạo nên nền trầm tích văn hóa bền vững của người Mường xứ Thanh, góp phần làm phong phú và đa dạng thêm cho văn hóa cộng đồng các dân tộc thiểu số nơi biên viễn.

Tại nhiều bản làng, các câu lạc bộ văn hóa - văn nghệ dân gian được thành lập, thu hút đông đảo người dân tham gia. Ảnh: Thủy Lê

Tại nhiều bản làng, các câu lạc bộ văn hóa - văn nghệ dân gian được thành lập, thu hút đông đảo người dân tham gia. Ảnh: Thủy Lê

Nỗ lực bảo tồn

Trước sự tác động mạnh mẽ của hội nhập và phát triển, công tác bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa được đặt vào vị trí đặc biệt quan trọng. Những năm qua, hệ thống quản lý văn hóa từ tỉnh đến cơ sở đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống quý báu.

Trước hết, các địa phương đã chú trọng phát hiện, nghiên cứu, phục dựng và tôn vinh những di sản đặc sắc của các dân tộc như lễ hội, tiếng nói, chữ viết, nghề thủ công, dân ca, dân vũ. Nhiều lễ hội có nguy cơ mai một đã được phục hồi trên nền tảng nghiên cứu khoa học, bảo đảm sự nguyên bản trong nghi thức và sự phù hợp với đời sống hiện đại. Tiêu biểu như lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy, Căm Mương, Mường Xia, Ca Da; tục cầu mưa, chữ Thái cổ, tục ngữ, ca dao... của người Thái; hay pồn pôông, múa hát quanh cây bông, “Trò ma”, séc bùa, lễ khai hạ, mo Mường, lễ tục làm vía kéo si... của người Mường.

Không dừng lại ở lễ hội, các nét đẹp trong đời sống thường nhật như trang phục, nghề dệt thổ cẩm, nghề đan lát, nghệ thuật diễn xướng đều được quan tâm bảo tồn và đưa vào hoạt động du lịch cộng đồng. Ở một số nơi, việc khôi phục trang phục truyền thống không chỉ nhằm mục tiêu văn hóa, mà còn trở thành sinh kế, giúp người dân tăng thu nhập, gắn gìn giữ văn hóa với phát triển kinh tế. Ngoài người Mường và Thái, các giá trị văn hóa của dân tộc Dao như lễ cấp sắc, lễ hội đền Thi; tập tục trong đám ma của người Mông; hay trang phục truyền thống dân tộc Thổ... cũng được sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn đúng cách, trả lại cho cộng đồng những thực hành văn hóa vốn có.

Việc bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số ở xứ Thanh không chỉ dừng lại ở khía cạnh di sản, mà còn hướng tới mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bền vững. Thông qua phục dựng các trò diễn, trò chơi dân gian, lễ hội truyền thống, chính quyền và nhân dân địa phương đã “đánh thức” những giá trị lâu đời, đưa văn hóa trở lại đúng vị trí trong đời sống cộng đồng. Tại nhiều bản làng, phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới được triển khai gắn với việc gìn giữ bản sắc dân tộc. Các câu lạc bộ văn hóa - văn nghệ dân gian được thành lập, thu hút đông đảo người dân tham gia; từ đó, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong việc khôi phục điệu múa xường, khắp Thái, tiếng chiêng Mường, hay các trò diễn truyền thống.

Đặc biệt, nhiều giá trị văn hóa được đưa vào trường học, trở thành nội dung giáo dục bổ trợ giúp thế hệ trẻ hiểu đúng, trân trọng và chủ động tiếp nối truyền thống của cha ông. Đây chính là cách bảo tồn bền vững nhất, trao gửi di sản ngay trong cộng đồng, ngay ở những thế hệ tiếp nối. Trong bối cảnh mới, với sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền, các ngành văn hóa, sự ủng hộ của cộng đồng và sự đồng hành của lực lượng Biên phòng, chắc chắn các giá trị văn hóa của đồng bào Mường, Thái, Mông, Dao, Thổ... sẽ tiếp tục được phát huy, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, góp phần xây dựng biên cương Thanh Hóa giàu đẹp, văn minh, bền vững.

Thủy Lê

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/bao-ton-va-phat-huy-ban-sac-van-hoa-cac-dan-toc-thieu-so-o-thanh-hoa-post498556.html