Đề kiểm tra môn Ngữ văn nặng đánh giá kiến thức sẽ khó thoát 'học vẹt, học tủ'

Chương trình Ngữ văn hiện hành dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, khác với dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.

Chương trình này được thiết kế theo hướng mở, tức là giáo viên được chủ động chọn ngữ liệu để giảng dạy và chọn ngữ liệu để thiết kế đề kiểm tra, với kỳ vọng học sinh thoát khỏi lối mòn của bài văn mẫu, thể hiện tư duy sáng tạo.

Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy vẫn còn học sinh học tủ, học vẹt bài văn mẫu bởi có những đề kiểm tra nặng tính đánh đố và tái hiện kiến thức.

Chỉ đạo quyết liệt để thay đổi đề kiểm tra, đánh giá

Nhằm thực hiện mục tiêu đánh giá đúng năng lực người học, đề Ngữ văn phải chống được nạn học tủ, học vẹt bài văn mẫu. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, trong đó 2 công văn cốt lõi là 3175/BGDĐT-GDTrH và 3935/BGDĐT-GDTrH.

Thứ nhất, công văn 3175/BGDĐT-GDTrH ngày 21/07/2022 về việc hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Văn bản đặt ra yêu cầu phải đổi mới dạy và học, kiểm tra đánh giá học sinh. Trong dạy đọc văn bản, giáo viên có thể đưa ra những gợi ý, chỉ dẫn để giúp học sinh đọc; không lấy việc phân tích, bình giảng của mình để áp đặt hay thay thế cho những suy nghĩ của học sinh; tránh đọc chép và buộc học sinh ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.

Trong kiểm tra và thi, công văn 3175 hướng dẫn: “Trong đánh giá kết quả học tập cuối học kỳ, cuối năm học, cuối cấp học, tránh dùng lại các văn bản đã học trong sách giáo khoa làm ngữ liệu xây dựng các đề kiểm tra đọc hiểu và viết để đánh giá chính xác năng lực học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép nội dung tài liệu có sẵn”.

Thứ hai, công văn 3935/BGDĐT-GDTrH ngày 30/07/2024 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2024-2025 trong đó nhấn mạnh, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện hiệu quả các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nêu rõ: “Đối với môn Ngữ văn, tránh sử dụng những văn bản, đoạn trích đã được học trong sách giáo khoa để làm ngữ liệu kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu và viết trong các đề kiểm tra định kỳ nhằm khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép nội dung tài liệu có sẵn”.

Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiều lần yêu cầu đề kiểm tra định kỳ không được sử dụng văn bản có trong sách giáo khoa là nhằm đánh giá chính xác năng lực người học, triệt tiêu tư duy theo lối mòn. Từ đó, học sinh có cơ hội phát triển cá tính, trí tưởng tượng, năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học, năng lực tư duy hình tượng và tư duy logic. Vì vậy, ngữ liệu chọn thiết kế đề phải đảm bảo nhiều tiêu chí, trong đó tiêu chí phù hợp với tâm lý, lứa tuổi học sinh rất quan trọng và kèm theo hệ thống câu hỏi một cách khoa học.

Đề thi nặng về kiến thức sẽ không thoát khỏi lối mòn tư duy

Đến nay, Chương trình GDPT 2018 đã được triển khai đồng bộ và có chiều sâu, đề kiểm tra môn Ngữ văn được thiết kế đúng nguyên tắc về chọn ngữ liệu, tuy nhiên vẫn có những đề kiểm tra định kỳ nặng về kiến thức, vượt xa tầm nhận thức của học sinh. Điều này có thể đẩy học sinh vào con đường học vẹt, học tủ.

Chẳng hạn, đề kiểm tra giữa học kỳ I lớp 9 tại một trường trung học cơ sở (không đề cập đến lỗi chính tả ở câu hỏi 2, phần đọc hiểu), với khối lượng kiến thức khá nhiều mà yêu cầu làm bài trong một thời gian ngắn ngủi, khiến cho nhiều người tư duy dễ nghĩ rằng chỉ có dạy thêm học thêm mới giải quyết được.

 Một đề kiểm tra.

Một đề kiểm tra.

Là một giáo viên Ngữ văn, người viết thấy đề Ngữ văn này thiên về kiểm tra kiến thức hơn là kiểm tra năng lực.

Thứ nhất, ngữ liệu ở phần đọc hiểu là một đoạn trích gồm 24 dòng lục bát trong tác phẩm kinh điển “Truyện Kiều” dài hơn 3.200 dòng thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Việc thiếu phần tóm lược hay dẫn dắt khiến cho nhiều em học sinh rơi vào trạng thái bất lực khi xác định vị trí đoạn trích và giải mã ý nghĩa, do đó khó có thể trả lời được hệ thống câu hỏi phân hóa ở phía sau. Trong đoạn thơ chỉ có tên nhân vật Kiều, ngoài ra không có thông tin gì để học sinh liên tưởng đến nàng Đạm Tiên. Vì thế, phần tóm lược rất quan trọng, có thể tóm lược như sau:

“Vào ngày lễ tảo mộ (tháng Ba thanh minh), ba chị em Thúy Kiều đi chơi xuân. Trên đường về, lúc này ráng chiều cũng đã nhạt, Kiều vô tình nhìn thấy một ngôi mộ cô quạnh nằm sát lề đường, cỏ khô héo, không có một người nào thăm viếng. Đó là mộ của Đạm Tiên, một ca nhi tài sắc nhưng bạc mệnh”.

Văn bản trung đại vốn có nhiều từ khó và lạ, vì thế cần thiết phải chú thích những từ ngữ khó. Có thể nói, ngôn ngữ trong “Truyện Kiều” là ngôn ngữ uyên bác, nhiều từ Hán Việt cổ và từ gây khó đối với học sinh khoảng 15 tuổi. Khi các em phải đối mặt với nhiều từ ngữ khó mà không có chú thích, các em buộc phải học thuộc lòng thay vì tự mình tư duy để cảm thụ.

Chẳng hạn, những cụm từ như “phượng chạ loan chung”, “tích lục tham hồng” hay “nét hoa”, “châu sa” khiến cả giáo viên phải tra từ điển mới hiểu đúng ý nghĩa nội dung. Thiếu chú thích những từ ngữ này thì rất khó để trả lời câu 3 (nêu khái quát nội dung) và câu 4 (biện pháp nghệ thuật). Điều này khiến học sinh phải tìm đến các lớp dạy thêm để học thêm, để có cơ hội được giải mã trước ý nghĩa, thay vì tự mình khám phá văn bản.

Thứ hai, ngữ liệu phần viết là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích “Truyện Kiều”), một văn bản có trong sách Ngữ văn 9 bộ Cánh diều. Vấn đề đáng nói ở đây là đề không hề cung cấp ngữ liệu (văn bản thơ) cho câu này. Học sinh phải thuộc lòng một đoạn thơ rất dài và đầy tâm trạng mới có thể dẫn chứng phân tích. Trong chương trình hiện hành, việc yêu cầu học sinh học thuộc lòng cả đoạn dài để phân tích mà không cho văn bản là một thử thách rất lớn đối với đa số học sinh trung bình.

Hơn thế nữa, trong khi công văn 3175 và 3935 yêu cầu tránh dùng lại văn bản có trong sách giáo khoa để đánh giá chính xác năng lực học sinh thì đề này sử dụng lại văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích” dành cho học sinh học sách Cánh diều làm bài kiểm tra có phù hợp?

Có lẽ ý đồ của người ra đề là muốn kiểm tra tổng thể kiến thức về “Truyện Kiều”, một tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam và là trọng tâm của học kỳ một. Tuy nhiên, việc dồn cả 2 đoạn trích vào một đề mà không cung cấp đủ lượng thông tin đoạn trích, không cho sẵn văn bản phần viết, theo người viết là khó với nhiều học sinh. Khi đề nặng về kiến thức hơn là kiểm tra kỹ năng tư duy, thì học sinh không phát huy được hết năng lực. Ngược lại, các em dễ rơi vào trạng thái ám ảnh và sợ hãi môn Ngữ văn.

Thiết kế đề kiểm tra chống học vẹt, học văn mẫu là nhiệm vụ bắt buộc

Chống tư duy theo khuôn sáo là một hành trình đầy khó khăn của Chương trình nhưng bắt buộc phải thực hiện. Lúc đầu, nhiều người "tâm tư" về Chương trình, nhưng đến nay có thể khẳng định Chương trình khoa học, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó, đòi hỏi sự thay đổi rất lớn từ giáo viên, thay đổi thực chất từ cách ra đề đến phương pháp giảng dạy.

Để chống biến tướng văn mẫu, người viết xin đề xuất ma trận đề và bảng tiêu chí chấm điểm (Rubric - thang đo đánh giá) cho đề kiểm tra trên. Mục tiêu của các công cụ này là chuyển trọng tâm từ việc kiểm tra “học sinh nhớ được gì” sang “học sinh có thể làm được gì” với một văn bản mới.

Thứ nhất, ma trận đề được thiết kế theo định hướng phát triển năng lực, khắc phục tình trạng quá áp lực về kiến thức hoặc thiếu dữ kiện bối cảnh.

Thứ hai, bảng tiêu chí chấm điểm (Rubric) chống “tủ mẫu mới”. Để loại bỏ tình trạng học sinh lắp ghép luận điểm chung chung hoặc dùng các cụm từ sáo rỗng, bảng tiêu chí cần ưu tiên tính logic và sự cảm thụ thực chất.

Việc áp dụng ma trận và Rubric này sẽ giúp hiện thực hóa tinh thần học thật thi thật, biến môn Ngữ văn từ gánh nặng học thuộc lòng thành không gian tự do khám phá của bản thân.

Tóm lại, Chương trình hiện hành yêu cầu đề kiểm tra phải thật sự khoa học, chính xác, phù hợp với yêu cầu cần đạt thì sẽ phát huy năng lực và sự sáng tạo của người học, giúp học sinh thoát khoải sự giam cầm của văn mẫu, tư duy sáo mòn, thụ động trong tiếp nhận văn học. Hãy chấp nhận và tôn trọng những suy nghĩ khác biệt, những cái tôi cá nhân của học sinh, đôi khi ngô nghê nhưng vẫn là suy nghĩ thật đáng trân trọng. Nếu không quyết liệt thay đổi cách thiết kế đề kiểm tra thì khó chạm tới mục tiêu học thật thi thật và môn Ngữ văn sẽ là nỗi ám ảnh với nhiều học sinh chứ không phải là niềm cảm hứng.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Nguyễn Ánh

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/de-kiem-tra-mon-ngu-van-nang-danh-gia-kien-thuc-se-kho-thoat-hoc-vet-hoc-tu-post256816.gd