Đề xuất Thủ tướng quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân
Trong dự án Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), Chính phủ đề xuất quy định Thủ tướng quyết định chủ trương đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Chiều 5/5, tiếp tục Kỳ họp thứ 9, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi).
Khắc phục bất cập, hạn chế trong Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008
Trình bày tờ trình, Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết, sau 17 năm triển khai thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 đã bộc lộ bất cập, hạn chế. Luật này chưa đáp ứng yêu cầu nội luật hóa liên quan đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, chưa phù hợp với các yêu cầu, tiêu chuẩn mới của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).
Đồng thời, thực tiễn thi hành cũng phát sinh sự chồng chéo trong chức năng quản lý của một số Bộ, ngành; một số quy định thiếu tính khả thi; chưa đáp ứng hoặc chưa theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ hạt nhân, công nghệ bức xạ; quy định về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân và quản lý Nhà nước đối với nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu chưa toàn diện, đầy đủ.

Phó Thủ tướng Lê Thành Long trình bày tờ trình. Ảnh: CTTĐT Quốc hội
Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết, việc xây dựng dự án luật sửa đổi lần này nhằm tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về năng lượng nguyên tử, thống nhất với các văn bản khác có liên quan và đáp ứng yêu cầu thực tiễn; xây dựng cơ sở pháp lý bảo đảm sự đầy đủ, toàn diện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về năng lượng nguyên tử.
Việc sửa đổi luật cũng nhằm tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân; phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử; thực hiện cam kết, nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam; tăng cường hợp tác quốc tế; năng lượng nguyên tử góp phần tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Theo đó, dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) gồm 12 chương, 73 điều, (giảm 20 điều, tương ứng với hơn 20% số điều so với Luật năm 2008), bám sát 4 chính sách đã được Chính phủ nhất trí.
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa ứng dụng năng lượng nguyên tử. Thứ hai, bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân và phân cấp trong công tác quản lý nhà nước. Thứ ba, tạo thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân. Thứ tư, tăng cường quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; chủ động và sẵn sàng ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân; bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.
Đáng chú ý, trong lần sửa đổi này, Chính phủ đề xuất phân quyền quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân cho Thủ tướng Chính phủ, thay vì thuộc thẩm quyền của Quốc hội theo Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công hiện hành.
Cần bổ sung quy định việc phê duyệt thiết kế đối với nhà máy điện hạt nhân
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết Ủy ban nhất trí với tên gọi Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi); cơ bản nhất trí với phạm vi điều chỉnh, đề nghị nghiên cứu bổ sung phạm vi điều chỉnh về thanh sát hạt nhân.
Về cơ quan pháp quy hạt nhân, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đề nghị quy định rõ cơ quan pháp quy hạt nhân và mối quan hệ công tác; có đủ thẩm quyền, năng lực kỹ thuật và quản lý; hoạt động tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn và hướng dẫn an ninh hạt nhân của IAEA và các điều ước quốc tế liên quan.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: CTTĐT Quốc hội
Về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội nhất trí với sự cần thiết và nội dung thúc đẩy phát triển và xã hội hóa ứng dụng năng lượng nguyên tử. Tuy nhiên, cần cân nhắc kỹ đến khả năng bảo đảm an toàn của cá nhân, tổ chức khi đầu tư, thành lập cơ sở tiến hành công việc bức xạ, cơ sở sản xuất, chế biến chất phóng xạ.
Về an toàn, an ninh cơ sở hạt nhân, cần bổ sung quy định việc phê duyệt thiết kế đối với nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân. Thiết kế nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu phải được Cơ quan pháp quy hạt nhân của nước đối tác thẩm định và phê duyệt, trong đó có tính đến các yêu cầu đặc thù của Việt Nam. Trường hợp nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu do các cơ quan chuyên môn của Việt Nam tự thiết kế thì cần bổ sung quy định về việc tuân thủ yêu cầu về an toàn và an ninh hạt nhân của IAEA.
Về thẩm quyền quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân, ông Lê Quang Huy cho biết, đa số ý kiến tán thành với phương án như Chính phủ trình, quy định Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Đa số ý kiến chấp thuận chủ trương đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan để tạo cơ chế linh hoạt, chủ động và đẩy nhanh tiến độ trong việc triển khai các dự án nhà máy điện hạt nhân. Điều này cũng phù hợp với chủ trương về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra cho rằng cần rà soát kỹ hệ thống pháp luật để bảo đảm tính đồng bộ, khả thi cũng như đáp ứng yêu cầu về bảo đảm an ninh, an toàn bức xạ và hạt nhân.
Về chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, Ủy ban đề nghị nghiên cứu, bổ sung chính sách liên quan đến việc kiểm soát các chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ trong phế liệu và các nguồn khác nhập khẩu, tạm nhập tái xuất để bảo đảm đầy đủ, khả thi và phù hợp.
Đối với ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, Ủy ban đề nghị tiếp tục rà soát, bảo đảm tính đầy đủ, thống nhất giữa nội dung các kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp cơ sở, cấp tỉnh, cấp quốc gia cũng như tính khả thi, chặt chẽ của các kế hoạch; bảo đảm thống nhất với Luật Phòng thủ dân sự và dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, tính khả thi trong phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.