Giữ lửa miền non cao

Từ những bản làng cheo leo nơi thượng nguồn sông Mã đến miền đồi thấp ven sông Chu, đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi xứ Thanh vẫn bền bỉ gìn giữ kho tàng văn hóa truyền thống qua lời ca, điệu múa, nghề dệt, lễ hội và phong tục bản mường.

Nghệ thuật diễn xướng khua luống được đồng bào dân tộc Thái miền núi Thanh Hóa gìn giữ và phát huy

Nghệ thuật diễn xướng khua luống được đồng bào dân tộc Thái miền núi Thanh Hóa gìn giữ và phát huy

Giữa nhịp sống hiện đại, họ nỗ lực lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc, để mỗi thanh âm khua luống, mỗi tấm thổ cẩm, mỗi câu hát dân gian tiếp tục thắp sáng bản sắc và sức sống bền bỉ của văn hóa miền sơn cước.

Vang vọng khua luống giữa đại ngàn

Miền núi Thanh Hóa là nơi cư trú lâu đời của hơn một triệu người, trong đó có khoảng 60 vạn đồng bào các dân tộc Mông, Dao, Khơ Mú, Thái, Mường, Thổ. Mỗi dân tộc, mỗi bản làng đều lưu giữ những sắc màu văn hóa riêng biệt, hòa quyện thành bức tranh rực rỡ của vùng đất phía Tây xứ Thanh.

Từ rẻo cao nơi người Mông sinh sống đến vùng giữa của người Thái, Dao, Khơ Mú, hay miền đồi thấp của người Mường, người Thổ, đâu đâu cũng thấm đẫm hồn cốt văn hóa dân gian. Trong những câu chuyện truyền đời, ta bắt gặp hình ảnh cây si trong Mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường - cành ngả ra tới đâu thì thành bản, thành làng tới đó. Ta nghe thấy tiếng gọi của Ải Lậc Cậc, Khăm Panh - những nhân vật khổng lồ trong huyền thoại người Thái, hiện thân cho sức mạnh sáng tạo và khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người miền sơn cước.

Từ đời sống lao động vất vả, đồng bào đã chắt lọc những bài học ứng xử giản dị mà sâu sắc, gửi gắm trong từng câu tục ngữ: Đào giếng mà uống, vỡ ruộng mà ăn; Chân vấp đừng đổ tại đá, mà tại chân ta không nhấc cao... Những lời răn ấy dạy người dân cách sống thuận theo tự nhiên, chất chứa triết lý nhân sinh thấm đẫm tình người, tình núi rừng.

Trong kho tàng văn hóa miền núi xứ Thanh, nghệ thuật diễn xướng khua luống của người Thái ở xã Tam Thanh là minh chứng sinh động cho sức sống bền bỉ của văn hóa dân gian. Khua luống khởi nguồn từ nhịp lao động thường ngày - từ tiếng chày giã gạo, giã thóc của người phụ nữ - rồi dần trở thành hình thức diễn xướng tập thể, gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của đồng bào. Giữa không gian sơn thủy hữu tình, âm thanh dồn dập, rộn ràng của khua luống vang lên như hơi thở của núi rừng, như nhịp tim của những người phụ nữ Thái đang dệt nên bản hòa ca của lao động và hạnh phúc.

Từ đôi tay khéo léo, họ gõ những thanh gỗ dài lên thân cây luống, tạo nên nhịp phách vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển. Bà Hà Thị Thưng, người phụ nữ ở bản Phe, xã Tam Thanh, là một trong những “ngọn lửa” giữ nghề khua luống. Bà kể: “Hồi nhỏ nhìn các bà, các mẹ trình diễn, tôi mê lắm. Lớn lên, được các cụ chỉ dạy, tôi tập theo và dần thành thạo. Bây giờ, tôi dạy lại cho con cháu trong bản, để ai cũng biết, ai cũng yêu khua luống như tôi ngày trước”.

Từ những buổi tập luyện bên sân nhà, khua luống dần hồi sinh, trở thành nét đẹp không thể thiếu trong mỗi dịp hội làng, trong Liên hoan văn nghệ dân gian, trong những đêm rộn ràng Hương sắc vùng cao của Thanh Hóa. Tiếng khua luống là âm thanh, là nhịp sống, là niềm tự hào của người Thái giữa đại ngàn.

Kho tàng di sản sống giữa đời thường

Miền núi Thanh Hóa là vùng đất của huyền thoại và lễ tục, đồng thời là kho tàng tri thức dân gian, nghệ thuật và ẩm thực phong phú. Những bàn tay tài hoa của đồng bào Mường, Thái, Dao, Mông… đã dệt nên biết bao sản phẩm thổ cẩm rực rỡ sắc màu. Ở bản Lặn, bản Ban, Năng Cát, Hạ Sơn, Pù Nhi… vẫn còn những nghệ nhân ngày đêm miệt mài bên khung cửi, thêu từng sợi chỉ, gửi vào đó linh hồn của bản làng. Từ tơ, đay, gai, phẩm nhuộm, đồng bào đã tạo nên những tấm váy áo, khăn choàng, tấm phá, gối, đệm vừa bền đẹp vừa đậm chất nghệ thuật.

Với đồng bào miền núi xứ Thanh, âm nhạc và vũ điệu là cách bày tỏ tâm hồn. Người Thái có múa xòe, múa nón, múa cá sa với nhịp điệu khoan thai mà rộn ràng như dòng sông Mã uốn quanh bản làng; người Mường có múa Pồn Pôông; người Dao có múa bát, múa chuông; còn người Mông lại say đắm với múa khèn, kèn môi, kèn lá. Những điệu múa, tiếng khèn ấy không chỉ là nghệ thuật, mà còn là sự kết tinh của niềm tin và triết lý sống hòa hợp với thiên nhiên.

Trên đôi bờ sông Chu, sông Mã, những làn điệu dân ca: Khặp của người Thái, Xường rang, Bọ mẹng của người Mường, Pả dung của người Dao, hát Tơm của người Khơ Mú, gầu Tào, gầu Plềnh của người Mông vẫn ngân vang qua bao thế hệ. Khi nồng nàn, tha thiết; khi trầm lắng, sâu xa, lời ca ấy chính là tiếng lòng của con người với quê hương, đất nước, với bạn bè và tình yêu.

Ẩm thực miền núi Thanh Hóa cũng mang đậm nét văn hóa riêng. Giữa mênh mông núi rừng, hương vị cơm lam, canh đắng, cá nướng, lợn thui quyện cùng men rượu cần thơm nồng tạo nên bản sắc khó lẫn. Mỗi món ăn vừa là sản vật của đất trời, vừa là kết tinh của sự khéo léo, tỉ mỉ và tinh tế.

Những đặc sản như quýt vòi Bá Thước, măng nứa Lang Chánh, mía Kim Tân, vịt Trạc Nhật, cá lăng Quan Hóa, quế Thường Xuân… đã trở thành niềm tự hào của miền sơn cước. Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều tri thức dân gian quý báu: Cách chọn đất làm nương, trị bệnh bằng cây cỏ, dự báo thời tiết qua tiếng chim, hướng gió hay màu mây trời. Dù không được ghi chép trong sách vở, những kinh nghiệm ấy vẫn được truyền dạy bằng lời nói, bằng hành động và bằng chính nếp sống giản dị, chan hòa.

Thanh Hóa hôm nay đang đổi thay từng ngày, nhưng ở vùng cao, những giá trị văn hóa dân tộc vẫn được nâng niu như báu vật. Thực hiện Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tỉnh đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, liên hoan, lễ hội nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Những lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy, Pồn Pôông, Sắc Bùa, Tết nhảy của người Dao, khèn bè của người Mông… đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc và trở thành điểm nhấn du lịch văn hóa của miền Tây Thanh Hóa.

Ở mỗi bản làng, những người như bà Hà Thị Thưng, “người giữ hồn khua luống”, vẫn miệt mài truyền lửa văn hóa cho thế hệ trẻ. Họ âm thầm nhưng bền bỉ, không quản nắng mưa, dạy con cháu từng điệu múa, từng nhịp khua, từng lời hát cổ. Bởi họ hiểu rằng, mất đi tiếng khua luống là mất đi một phần linh hồn của bản mường.

TRẦN HOÀNG

Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/dan-toc-ton-giao/giu-lua-mien-non-cao-178179.html