Khai mở tiềm năng để ngành hàng cá tra phát triển

Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là An Giang có nhiều lợi thế tự nhiên trong nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu. Từ những ao hầm ven sông đến vùng nuôi tập trung của các doanh nghiệp, nghề nuôi cá tra hình thành chuỗi sản xuất khép kín, cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho hàng trăm doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế rất lớn trong nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: MINH HIỂN

Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế rất lớn trong nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: MINH HIỂN

Lợi thế và thách thức

Sau gần 30 năm phát triển, ngành hàng cá tra đã trở thành biểu tượng của thủy sản vùng hạ lưu sông Mekong. Toàn vùng hiện thả nuôi cá tra khoảng 5.700ha mặt nước, sản lượng đạt 1,4 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ USD, tạo việc làm ổn định cho hơn nửa triệu người lao động.

Nhiều tỉnh như An Giang, Đồng Tháp đã hình thành vùng nuôi tập trung, liên kết doanh nghiệp - nông dân. Nhờ nguồn nước dồi dào, kinh nghiệm nuôi lâu năm, cá tra Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 140 thị trường.

Dư địa phát triển vẫn còn rộng khi thị trường thế giới ngày càng ưa chuộng sản phẩm thủy sản “xanh”, có truy xuất nguồn gốc. Vấn đề đặt ra là ngành cá tra cần chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng, hướng đến phát triển bền vững.

Ngành hàng cá tra giải quyết cho nửa triệu người lao động có việc làm ổn định. Ảnh: MINH HIỂN

Ngành hàng cá tra giải quyết cho nửa triệu người lao động có việc làm ổn định. Ảnh: MINH HIỂN

Tuy nhiên, để biến tiềm năng ấy thành giá trị bền vững, ngành hàng cá tra phải vượt qua các “điểm nghẽn” về kỹ thuật, thị trường và quản trị chuỗi giá trị. Ông Trần Vũ Em - Chi hội trưởng Chi hội Cá giống xã Phú Hòa cho biết: “Khó khăn lớn nhất hiện nay là chi phí sản xuất và vốn. Nhiều hộ nuôi nhỏ lẻ thiếu vốn cải tạo ao nuôi, cần vốn lưu động để nhập thức ăn, thuốc thủy sản trong bối cảnh giá cả những mặt hàng này biến động liên tục. Dịch bệnh vẫn là nguy cơ thường trực, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm”.

Theo ông Lê Chí Bình - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản tỉnh, hiện nay chuỗi ngành hàng cá tra liên kết còn lỏng lẻo, khiến người nuôi dễ bị động khi thị trường biến động, trong khi doanh nghiệp phải gánh chi phí cao để đạt các chứng nhận quốc tế như ASC, HACCP, BRC... Cá tra Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU. Vì vậy, khi rào cản thương mại thay đổi, hoạt động xuất khẩu dễ bị sụt giảm. Bên cạnh đó, tình trạng biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập và ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng khiến bài toán phát triển bền vững trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Công nhân Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đa quốc gia IDI chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: Đặng Linh

Công nhân Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đa quốc gia IDI chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: Đặng Linh

Hướng tới phát triển bền vững

Để khai mở tiềm năng cho ngành hàng cá tra, vấn đề trọng tâm là tiếp tục nâng cao kỹ thuật, quản trị chuỗi ngành hàng và năng lực thích ứng với biến động thị trường và biến đổi khí hậu. Từ thực tế đó, nhiều doanh nghiệp ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ mạnh dạn đầu tư các mô hình nuôi tuần hoàn, áp dụng hệ thống lọc nước tái sử dụng (RAS) và số hóa quản lý trại nuôi nhằm giảm chi phí và tăng khả năng truy xuất nguồn gốc.

Ở khâu chế biến, các doanh nghiệp cần chú trọng phát triển sản phẩm giá trị gia tăng như: Cá fillet, cá viên, collagen, dầu cá, thức ăn chăn nuôi... để tận dụng tối đa nguồn phụ phẩm, tiếp tục nâng cao hiệu quả kinh tế cho toàn ngành. Ông Doãn Tới - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt cho rằng: “Nếu tận dụng tối đa thành phẩm và phụ phẩm, giá trị xuất khẩu cá tra có thể vượt xa mức 2 tỷ USD/năm như hiện nay”.

Đóng gói sản phẩm cá tra trước khi xuất khẩu. Ảnh: MINH HIỂN

Đóng gói sản phẩm cá tra trước khi xuất khẩu. Ảnh: MINH HIỂN

Bên cạnh nỗ lực của doanh nghiệp, vai trò của chính quyền và hiệp hội ngành hàng cá tra cũng quan trọng. Nhà nước cần tiếp tục quy hoạch vùng nuôi theo hướng an toàn sinh học, đầu tư hạ tầng giao thông, điện, nước, mở rộng tín dụng ưu đãi cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Ngành nông nghiệp cần tăng cường cấp mã số vùng nuôi, hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử để đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu “Cá tra Việt Nam” tại các thị trường trọng điểm. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên tiếp tục làm cầu nối, chia sẻ thông tin, cảnh báo rào cản kỹ thuật, giúp doanh nghiệp ứng phó kịp thời.

Ngành hàng cá tra Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn, nhưng cũng đối diện với nhiều thách thức mới. Để duy trì vị thế, ngành hàng này cần đẩy mạnh liên kết “4 nhà” (Nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học - người nuôi). Theo đó, Nhà nước chịu trách nhiệm tạo khung chính sách, pháp lý thuận lợi. Doanh nghiệp tiếp tục đầu tư công nghệ và phát triển thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhà khoa học chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho ngư dân, doanh nghiệp. Người nuôi cá tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, tăng cường bảo vệ môi trường.

Khi các mắt xích trong chuỗi giá trị cùng gắn kết, cá tra Việt Nam sẽ không chỉ là sản phẩm xuất khẩu chủ lực mà còn là biểu tượng cho sự thịnh vượng và phát triển bền vững của vùng hạ lưu sông Mekong.

MINH HIỂN

Nguồn An Giang: https://baoangiang.com.vn/khai-mo-tiem-nang-de-nganh-hang-ca-tra-phat-trien-a464085.html