Kích hoạt nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực trong kỷ nguyên số

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang tái định hình sâu sắc cấu trúc kinh tế và thị trường lao động toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp bách về một nguồn nhân lực số nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tại Việt Nam, hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH) và giáo dục nghề nghiệp (GDNN), được xác định là nền tảng quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, để thực hiện sứ mệnh này, hệ thống giáo dục cần một đòn bẩy tài chính đủ mạnh và hiệu quả.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tài chính cho giáo dục - Những điểm nghẽn giữa chính sách và thực thi

Theo nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo năm 2013 và Luật Giáo dục năm 2019, ngân sách chi cho giáo dục phải đảm bảo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, chi cho giáo dục và đào tạo chỉ ở mức 15 -19%.

Dữ liệu thống kê giai đoạn 2020-2024 cho thấy, tại Việt Nam, dự toán tỷ lệ chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục mới chỉ dao động trong khoảng 14.8% đến 15.5%, với dự toán năm 2024 là 14.44%. Như vậy, chi NSNN cho giáo dục, đào tạo còn khá xa so với mục tiêu: đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Thực tế này đặt ra thách thức lớn cho hệ thống giáo dục Việt Nam vốn còn tồn tại tình trạng "đổi mới phương pháp dạy và học còn chậm; hạ tầng công nghệ thông tin còn lạc hậu";

Đầu tiên phải kể đến khó khăn do cơ cấu nguồn vốn và sự phụ thuộc vào học phí. Nhiều năm qua, nguồn tài chính cho giáo dục về lý thuyết đến từ nhiều kênh, bao gồm NSNN, học phí, nghiên cứu khoa học và các nguồn hợp pháp khác (Luật Giáo dục, 2019). Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ ra rằng, tiềm lực tài chính của phần lớn các trường còn yếu, với nguồn thu phụ thuộc chủ yếu vào học phí (chiếm 77%), trong khi thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ chỉ chiếm 5%. Sự phụ thuộc này không chỉ gây áp lực lên người học mà còn khuyến khích các trường ưu tiên các ngành "thị trường" thay vì các ngành khoa học- công nghệ chiến lược.

Thứ hai về cơ chế phân bổ ngân sách và tự chủ đại học. Một trong những "điểm nghẽn" cơ bản là cơ chế phân bổ NSNN vẫn dựa trên các định mức đầu vào như số lượng học sinh và biên chế, thay vì chất lượng đầu ra. Cơ chế "cào bằng" này khá dàn trải, không gắn với chất lượng đào tạo hay nhu cầu thị trường và không tạo động lực cạnh tranh để đổi mới. Đặc biệt, mức chi cho GDĐH từ NSNN rất thấp, chỉ khoảng 0.18% - 0.27% GDP, không đủ để tạo ra sự bứt phá.

Trong bối cảnh đó, chính sách tự chủ đại học (TCĐH) đối mặt với một mâu thuẫn cốt lõi, có thể gọi là "cái bẫy tự chủ không nguồn lực". Các trường được thúc đẩy tự chủ nhưng lại không được cung cấp đủ nguồn lực tài chính hoặc sự linh hoạt cần thiết dẫn đến tình trạng "tự chủ" bị biến tướng thành "tự lo", buộc các trường phải tối đa hóa nguồn thu từ học phí, làm chệch hướng các mục tiêu chiến lược về chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Từ thực tế phát triển của nền giáo dục Việt Nam, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, các chuyên gia đã đưa ra nhiều kiến nghị. Theo đó, Việt Nam cần dịch chuyển cơ chế phân bổ NSNN từ dựa trên đầu vào sang dựa trên kết quả đầu ra (PBF) và tăng cường đặt hàng đào tạo. Lộ trình này có thể bắt đầu bằng việc thí điểm các quỹ cạnh tranh và hợp đồng chất lượng, trước khi áp dụng rộng rãi một công thức phân bổ PBF dựa trên bộ tiêu chí quốc gia. Các tiêu chí này cần bao quát chất lượng đào tạo, tác động thị trường, kết quả nghiên cứu và mức độ hội nhập quốc tế.

Ngoài ra, để tháo gỡ "bẫy tự chủ không nguồn lực", cần cải cách pháp lý như cho phép các trường tự chủ xác định học phí dựa trên chất lượng đã được kiểm định, nhưng phải đi kèm với một hệ thống học bổng và tín dụng sinh viên đủ mạnh. Đồng thời, cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc triển khai Luật PPP trong giáo dục, làm rõ các vấn đề về quyền sở hữu, lợi nhuận và ưu đãi đầu tư để tạo hành lang pháp lý an toàn cho khu vực tư.

Cùng với đó, cần tạo ra một hệ sinh thái tài chính rộng lớn hơn, bao gồm việc thành lập Quỹ Phát triển Nguồn nhân lực Chiến lược do Nhà nước và doanh nghiệp đồng tài trợ; cần có các chính sách ưu đãi thuế hiệu quả hơn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục; các cơ sở giáo dục phải nâng cao năng lực quản trị tài chính nội bộ, thực hiện kiểm toán độc lập và công khai minh bạch thu chi để xây dựng lòng tin với xã hội.

Nghị quyết 71 - Kích hoạt đòn bẩy tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực số

Ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, với quan điểm chỉ đạo mạnh mẽ về phát triển giáo dục, đào tạo, đó là: “Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Tạo đột phá về nguồn lực, động lực và không gian mới cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng; bảo đảm Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội cho hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân”.

Trong đó nhiệm vụ, giải pháp ( số 2) về “Đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo”, nêu rõ một số nội dung cơ bản sau:

Tập trung hoàn thiện các quy định pháp luật để kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kiến tạo phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục gắn với kiểm tra, giám sát hiệu quả;…

Có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo; nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông lên tối thiểu 70% cho giáo viên, tối thiểu 30% cho nhân viên, 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;…

Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính;

Đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp dựa trên sứ mạng, chất lượng và hiệu quả theo cơ chế thống nhất trong toàn ngành; ưu tiên đặt hàng, giao nhiệm vụ đối với các ngành, lĩnh vực trọng điểm theo kết quả đầu ra;

Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó phân bổ chi đầu tư đạt ít nhất 5% tổng chi ngân sách nhà nước và chi cho giáo dục đại học đạt ít nhất 3% tổng chi ngân sách nhà nước. Thống nhất chủ trương xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia mới về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035; ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học.

Mở rộng các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học, không để học sinh, sinh viên nào bỏ học vì điều kiện tài chính;…

Nâng chuẩn cơ sở giáo dục ở tất cả cấp học, quy định diện tích tối thiểu, quy chuẩn, tiêu chuẩn từng bước tiệm cận khu vực, quốc tế. Ưu tiên dành quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất giáo dục; tập trung giải phóng mặt bằng, giao đất sạch cho các dự án giáo dục, đào tạo. Không thu tiền sử dụng đất, giảm tiền thuê đất, tiền thuế đất đối với các cơ sở giáo dục trong nước. Không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục công lập, cơ sở giáo dục tư thục hoạt động không vì lợi nhuận;

Xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh hợp tác công tư; mở rộng hợp tác, liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, cơ sở nghiên cứu, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước; ưu tiên vốn tín dụng cho các dự án phát triển giáo dục và đào tạo;...

Tin rằng, Nghị quyết 71 sẽ là đòn bẩy mạnh mẽ và hiệu quả, tạo đột phá trong việc thúc đẩy các nguồn lực tài chính tập trung cho phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho kỷ nguyên số./.

PV. (t/h)

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/kich-hoat-nguon-luc-tai-chinh-cho-phat-trien-nhan-luc-trong-ky-nguyen-so.html