Ngủ ôm rơm, hơi ấm ổ rơm

Có nhiều câu tục ngữ truyền miệng từ bao đời, dần dần về sau, có thể do từ được sử dụng đã phai nghĩa theo năm tháng, người ta 'cập nhật' bằng cách thay từ khác cho dễ hiểu hơn, từ đó không những dẫn tới dị bản mà còn làm sai lệch ý nghĩa. Thí dụ, ông bà ta nói 'Ôm rơm nặng bụng/ rậm bụng' hay 'rặm bụng'? Từ nào chính xác? Muốn trả lời câu hỏi này, cách tốt nhất vẫn là khảo sát lấy từng từ trong câu tục ngữ này.

Về từ "ôm", thiết nghĩ trên đời này, bất kỳ ai dù trẻ già, lớn bé cũng đều từng thể hiện động tác dành cho người khác hoặc vật dụng nào đó bằng cách quàng hai tay qua giữ sát vào lòng, tùy tâm trạng, tình cảm có thể "ôm chầm", "ôm ấp" thể hiện thêm tình cảm tha thiết, thân mật, thân thương. Dù cũng ôm nhưng rất mất tư cách nếu "Ôm chân liếm gót", "Ôm chân núp bóng" - không hẳn cụ thể là ôm mà thể hiện sự luồn cúi, luồn lách, bợ đỡ miễn có lợi cho mình.

Rạ rơm giữ vẹn tình quê”, tranh của Trần Công Nguyên.

Rạ rơm giữ vẹn tình quê”, tranh của Trần Công Nguyên.

Tất nhiên ôm còn "ôm đồm" thêm nghĩa khác, thí dụ, ai đó nhận xét: "Ngay từ bé, anh X đã ôm mộng văn chương" là ấp ủ, nuôi dưỡng trong lòng ước mơ đó; thế nhưng cũng là ôm như: "Một mình thủ phận một mình/ Một ôm củi quế, một chình gạo châu" thì ôm lại là một mớ vừa hai tay ôm lấy. Câu này, ta gặp từ "chình" nhưng phải hiểu là "chĩnh" một vật tương tự cái hũ nhưng bụng rộng và miệng to hơn như ta gặp trong câu "Chuột sa chĩnh gạo" v.v…

Không chỉ "ôm rơm", người ta còn ôm nhiều thứ khác, tất nhiên rồi. Thí dụ “Truyện Kiều” có câu: "Đã nguyền hai chữ đồng tâm/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai", ta hiểu không chỉ ôm mà còn cầm lấy, nắm lấy. Ơ hay, cái thuyền to, dài thì làm sao mà ôm mà cầm? Cầm trong ngữ cảnh này chính là tiếng Hán Việt chuyển qua tiếng Việt nghĩa là đàn. Ôm lấy cây đàn sang thuyền người khác - hiểu theo nghĩa bóng là dứt tình dứt nghĩa, đi theo duyên mới. Sở dĩ cầm xuất hiện bởi một khi nói sắt cầm/ cầm sắt là ngụ ý: "Đàn cầm và đàn sắt hòa thanh với nhau, tỷ như vợ chồng", “Tự điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh giải thích.

Ta lại hỏi cắc cớ, ôm lấy cây đàn đó đi nơi nào, chỗ nào cũng được, hà cớ gì phải là "thuyền/ sang thuyền"? Rắc rối nhỉ. Theo nhà nghiên cứu Lê Văn Hòe: "Lấy chữ ở bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đời nhà Đường: "Khẳng bả tỳ bà quá biệt thuyền” nghĩa là “Sao nỡ ôm tỳ bà sang thuyền khác” (Truyện Kiều chú giải, 1959).

Với từ rơm, ngày xưa ở miền Đông Nam Bộ có từ "ngủ rơm". Để giải thích câu này, không gì thú vị hơn khi ta một đoạn trong đọc truyện ngắn "Kiếp ngủ rơm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc: "Bấy giờ vào tiết tháng Chạp, rơm trải ruộng thành lớp mỏng để phơi, đã khô khá khá rồi, nên họ gom lại thành những cây rơm lớn - cây rơm tạm thời nầy rất thô sơ, chớ không thật khéo như cây rơm ở sân nhà"; "Rồi chàng hỏi Thành:

- Ngủ rơm là gì?

Tuấn quê ở Hậu Giang, theo bạn về quê của hắn là một làng ở miền Đông để nghỉ mát. Thành giải thích:

- Chắc anh biết rằng rơm, sau mùa gặt, cần phải phơi cho khô?

- Biết.

- Nhưng dưới quê anh, đồng ruộng ẩm ướt, người phải kéo rơm về nhà để phơi. Còn ở xứ này nhờ ruộng khô, nên chúng tôi cứ để ngoài ruộng, sang Giêng mới kéo về, mà kéo về là cắt được ngay. Và dưới anh cỏ nhiều, cũng không cần dự trữ rơm cho lắm, như ở đây mà qua mùa nắng trâu bò không tìm được lấy một cọng cỏ. Rơm ở đây rất quý nên hay bị trộm cắp.

- Nhà này có rơm chớ?

- Cố nhiên.

- Ai ngủ.

- Thằng bé chăn trâu.

- Nó có 10 tuổi, giữ sao được?

- Giữ rơm chỉ cần có người để báo động là trộm cắp chúng nó không dám ra tay. Và ở đây là xứ tiểu địa chủ, một người chỉ có vài ba mẫu ruộng, tức rơm phơi không xa nhau lắm, tối lại thì có hàng mấy mươi đứa trẻ ngoài ấy, đứa này hô lên là đứa kia nghe liền, trộm cắp có muốn áp bức đứa báo động cũng không được".

Ta hiểu "ngủ rơm" là giữ rơm, để dành cho trâu bò lúc sang mùa nắng nóng, thiếu cỏ tươi. Hẳn nhiều người còn nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Duy kể về lúc nằm ngủ trong ổ rơm:

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm

Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng

Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Mà ngủ rơm ngủ thế nào, những ai ở thành thị có lẽ chưa từng trải qua chăng? Nhà văn Nguyễn Thế Lượng khi "Nhớ hơi ấm ổ rơm" đã kể thật chi tiết, lưu ý nếu không dù từ "rơm", ta có thể dùng từ "rạ". Rơm rạ là từ đôi cùng nghĩa: "Cái lạnh kéo dài triền miên mấy tháng trời cùng mùa đông u ám, bà cầm liềm ra vườn cắt những tàu lá chuối đã khô còn bám trên thân cây và mang bó rạ cất kỹ từ vụ tháng 10 trên gác bếp xuống. Rạ và lá chuối được bà rũ sạch, mang ra sân phơi hai ba nắng cho khô nỏ. Rồi vào một buổi chiều đông lạnh giá như bao hôm nào, bà mang bó lá chuối và rạ đã khô ra, dùng bốn thanh tre chiều dài, rộng đúng bằng khung của chiếc giường khuôn ổ. Bà dùng tay bện những cụm rạ khô thành từng hàng và kết chúng lại như những chiếc chiếu, ở trên bà phủ lên những cành lá chuối đã khô nhưng còn dai, sau đó dùng nẹp tre kẹp lại thành một khung rạ và lá chuối. Sau một hồi, chúng tôi đã hiểu bà đang tự chế một chiếc "đệm" để chống lại những đêm dài giá lạnh. Bà đặt tấm đệm vào giường rồi trải lên trên chiếc chiếu cói đã cũ sờn. Chúng tôi sướng lắm vì tối đó được nằm ngủ trên tấm đệm lá chuối".

Nghĩ rằng, một khi tìm về ngữ nghĩa tiếng Việt, nếu đặt từ đó trong đời sống, tự dưng tận đáy lòng dậy lên biết bao cảm xúc gần gũi thân thương. Những trích dẫn vừa nêu là thí dụ cho suy ngẫm này.

* * *

Trở lại với câu tục ngữ đã nêu, vấn đề đặt ra ở đây, tại sao phải ôm rơm cho nặng/ rậm/ rặm bụng? Có phải thứ quý báu, quý giá gì cho cam, thậm chí có lúc chỉ là thứ "ngang cơ" với rác, vì thế khi nói "rơm rác" lả hiểu nghĩa bóng: "Vật người ta khinh thường, rẻ rúng" - theo “Việt Nam tự điển” (1931). Ấy vậy, thật tréo ngoe cho cái sự đời: "Trên đầu những rác cùng rơm/ Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu". Do yêu thương nồng nàn tình cảm nên anh chồng này có bảo thế hoặc hơn cả thế cũng không sao cả.

Chỉ đáng ngạc nhiên, lấy làm lạ khi nhìn thấy ai kia lại "ôm rơm". Ta hình dung ra hình ảnh ai đó ôm mớ rơm vừa một ôm, như người ta thường nói "một ôm rơm", "một ôm lúa"… Như vậy là ôm vừa đủ sức mình, chỉ một ôm rơm, dù rơm có ích nhưng không đáng giá gì bởi quá ít ỏi, đã thế còn dẫn đến tính trạng liên quan đến cái bụng của mình nữa.

Cái bụng lúc ấy thế nào?

Như đã biết về tính chất của rơm thì rõ ràng từ "nặng" không có cửa xuất hiện. Do nó nhẹ nên mới có câu ví von "Quyền rơm vạ đá" - ý nói quyền hành, quyền lực thì nhẹ (ít) chẳng đáng là bao nhưng gặp chuyện lại phải gánh chịu vạ/ tai vạ nặng (nhiều) mà người ta thường bảo "Nặng như đeo đá". Hoặc "Quan tiền nặng, quan tiền chìm/ Bồ nhìn nhẹ, bồ nhìn nổi", bồ nhìn/ bù nhìn cũng bện bằng rơm đó thôi.

Khi nói "nặng bụng" là hiểu theo hai nghĩa: 1. Cái bụng ì ạch do thức ăn trong bao tử không tiêu; 2. Phiền lòng, không như ý. Chẳng một ai ăn rơm, vì thế không thể áp dụng theo nghĩa 1. Vậy hiểu theo nghĩa thứ 2 chăng? Không, ở nghĩa bóng này rơm được hiểu là ôm lấy công việc, chuyện gì đó nhưng lại là chỉ ở mức độ nhẹ (do từ rơm xuất hiện) thì không thể "nặng bụng", "nặng đầu", "nặng lòng" phải lắm ưu tư, nhiều suy nghĩ lo lắng…

Vậy, ta chọn rậm/ rậm bụng. Rậm là dày, khít, um tùm. Nếu như thế, từ "rậm bụng" vô nghĩa, chỉ có thể "Rậm người hơn rậm cỏ", "Rậm râu, sâu mắt", còn cái bụng ấy không thể rậm theo nghĩa vừa nêu. Một khi đã loại trừ "nặng" và "rậm" ta chỉ còn duy nhất "ứng cử viên" sáng giá nhất: rặm. "Rặm: Ngứa, xót, chói như có cái gì châm vào" - “Việt Nam tự điển” (1931) giải thích, Như vậy nghĩa bóng của câu "Ôm rơm rặm bụng" hiểu theo nghĩa bóng là ôm lấy cái chuyện bá vơ vặt vãnh không đâu, chỉ tổ gây ra phiền phức khó chịu cho chính mình.

Cái hay, độc đáo của tục ngữ này chính là ở chỗ chọn từ rất đắt: "rơm" thứ không đáng giá một khi mình ôm lấy/ ôm đồm ắt dẫn đến cái sự khó chịu, do đó, "rơm" đi chung với "rặm" là hợp lẽ. Còn nếu không phải rơm/ không phải chuyện vặt vãnh thì không là rặm bụng/ ngứa bụng mà còn tệ hại hơn nữa, vì thế câu này còn đóng vai trò cảnh báo cẩn phải cẩn trọng ngay cả việc nhỏ nhất.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/ngu-om-rom-hoi-am-o-rom-i782832/