Người cha của vĩ nhân Hồ Chí Minh
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là nhân vật lịch sử đặc biệt, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ sinh ra vào thời kỳ đất nước bị ngoại bang đô hộ, vương quyền nhà Nguyễn như 'ngọn đèn trước gió', gia tộc cụ có truyền thống khoa cử nên từ nhỏ cụ được sống trong nền giáo dục nho học. Chính nền giáo dục này phần nào đã hình thành nên những nhân cách thanh cao của một bậc túc nho, trong đó có tư tưởng 'Trung quân, ái quốc'.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862 (Nhâm Tuất) tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân mẫu là cụ bà Hà Thị Hy, thân phụ là cụ ông Nguyễn Sinh Nhậm. Cụ là thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh thời còn có tên gọi khác là Nguyễn Sinh Huy, người dân làng Sen quen gọi là Cụ Phó bảng.
TUỔI THƠ VẤT VẢ
Cha, mẹ qua đời khi còn rất nhỏ; lên 3 tuổi mồ côi cha, lên 4 tuổi mẹ qua đời, cụ Nguyễn Sinh Sắc phải về ở với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ.

Tranh vẽ Cụ Nguyễn Sinh Sắc kê toa bốc thuốc trị bệnh cho bà con. Nguồn: dongthap.gov.vn
Năm 16 tuổi, cụ được nhà nho Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) nhận về nuôi dạy, với bản tính hiếu học, thông minh nên trở thành học trò giỏi có tiếng trong vùng.
Đến năm 22 tuổi, Cụ được nhà nho Hoàng Xuân Đường gả cô con gái lớn là Hoàng Thị Loan và lần lượt hạ sinh 4 người con: Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) và Nguyễn Sinh Xin (mất lúc nhỏ). Năm 1891, Cụ vào Vinh thi Hương nhưng không đỗ.
Năm 1894, Cụ tiếp tục dự thi Hương và đỗ Cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (năm 1895), Cụ Nguyễn Sinh Sắc vào Huế thi Hội bị hỏng, đã xin đi làm Hành tẩu bộ Hộ. 3 năm sau, cụ thi hỏng kỳ thi Hội một lần nữa (năm 1898).
Nhờ sự vận động của ông Hồ Sĩ Tạo với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Cụ Nguyễn Sinh Sắc được nhận vào học Quốc Tử Giám ở Huế và đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và 2 con trai vào Huế, đi học Quốc Tử Giám.
Trước khi dự kỳ thi Hội năm 1901, với tư cách là một quan chức triều đình Huế, cụ còn tham dự Hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi Hương tại Bình Định năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900.
Ngày 22-12, năm Canh Tý (nhằm 10-2-1901), cụ bà Hoàng Thị Loan lâm trọng bệnh và qua đời tại Huế, sau khi sinh người con trai út là Nguyễn Sinh Nhuận. Người thân duy nhất bên cạnh cụ bà lúc lâm chung chỉ có 2 anh em Nguyễn Sinh Cung (11 tuổi) và Nguyễn Sinh Nhuận (sơ sinh). Nguyên do là đúng thời điểm này, cụ Nguyễn Sinh Sắc đang tham gia Hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi Hương tại Thanh Hóa (trong chuyến công cán này Cụ đem theo người con trai lớn là Nguyễn Sinh Khiêm để đỡ đần lúc ốm đau).
Trước tình cảnh đau buồn, khốn khó ấy, Cụ đành đem 2 con trai trở về Hoàng Trù, gửi mẹ vợ chăm sóc giúp rồi quyết chí trở vào Huế tham dự kỳ thi Hội, cũng mong thi đỗ an ủi hương linh người vợ quá cố suốt đời tần tảo, hy sinh vì chồng, vì con.
NGƯỜI SĨ PHU YÊU NƯỚC, THƯƠNG DÂN
Động lực đó đã nâng đỡ tinh thần cụ rất nhiều, nên tại khoa thi Hội năm Tân Sửu (năm 1901), cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đậu Phó bảng. Theo luật triều Nguyễn, cũng như lệ làng xưa, cụ tân Phó bảng Nguyễn Sinh Huy trở về Làng Sen để “vinh quy bái tổ”, rồi mới trở lại kinh thành Huế.
Cụ đem theo 2 người con trai lúc này được đổi tên thành Nguyễn Tất Đạt (tức Nguyễn Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Sinh Cung) vào học tại Trường Quốc học ở Huế.
Tháng 5-1909, do tính tình cương trực, thanh liêm, không chịu luồn cúi ở chốn quan trường, Cụ Phó bảng bị đổi đi làm tri huyện Bình Khê (trước đây thuộc xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định), mà đất Bình Khê thời đó nổi tiếng với địa chủ, cường hào ỷ thế có quan lại triều đình chống lưng, nên không chịu đóng thuế.
Vào năm 2012, hơn 8 thập kỷ sau khi Cụ Phó bảng qua đời, chính quyền và Nhân dân tỉnh Đồng Tháp long trọng tổ chức Lễ giỗ lần thứ 83 với quy mô cấp tỉnh và khánh thành Đền thờ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Công trình được thiết kế dựa trên kiến trúc nhà bát giác (bát giác dựa trên tứ trụ: Trên là trời, dưới là đất và nước, ở giữa là nhân tài), nhằm nói lên sự hài hòa của đất trời, cũng như công lao của cụ đối với người dân Nam bộ, đặc biệt là quê hương Đồng Tháp... nơi in đậm dấu ấn những tháng năm cụ Phó bảng bốc thuốc cứu người và sống giữa muôn vàn tình thương, tôn kính của người dân Nam bộ.
Một bữa nọ, có lính vào bẩm báo rằng đám địa chủ chống thuế lại đến, Cụ lập tức cho truyền họ vào và bảo: “Bọn bây phải biết rằng, chỉ có vua mới miễn được thuế, còn ta chỉ có đồng lương ít ỏi phải bù cho số thuế thiếu kia. Ta đã cho người dò kỹ rồi, nhà tụi bây còn giàu hơn cả quan, làm ruộng thì phải đóng thuế, chống lại là cớ làm sao? Cả đám lập tức nhao nhao nói hỗn, chửi bới, chỉ trích quan tham nhũng. Một người thanh liêm như Cụ bị xúc phạm danh dự đương nhiên nổi cáu, truyền: Lôi ra ngoài đánh bọn chúng cho ta”.
2 tháng sau, một trong số những kẻ ăn đòn bị chết. Đám địa chủ hùa nhau lại kiện tri huyện Bình Khê, đám người đi kiện vốn dựa thế có quan lại triều đình chống lưng, lại thêm Cụ Phó bảng vốn giàu lòng yêu nước, khẳng khái, thường chống lại đám quan tham vọng triều đình và đám thực dân cai trị, nên trở thành đối tượng bị chúng ghét bỏ, càng khiến sự tình nhanh chóng đến tai vua.
Do vậy, Cụ bị triệu hồi về kinh thành Huế để xét xử vì các tội: Thứ nhất là để tù chính trị vượt ngục; thứ hai là hà khắc với đám hào lý; thứ ba là bênh vực dân đen; thứ tư là không thu đủ thuế.
Ngày 17-9-1910, Cụ Phó bảng bị triều đình ban sắc phạt đánh một trăm trượng (gậy), may nhờ các ông Thượng thư Hồ Đắc Trung, ông Cao Xuân Dục và Đào Tấn cùng dập đầu xin vua tha chết.
Cả ba ông đều tâu vua, Nguyễn Sinh Huy làm quan thanh liêm, xử án công minh, bốc thuốc chữa bệnh người rất tận tâm... Việc xảy ra chỉ là do sơ suất và bọn lính đã quá tay nên hình phạt này được chuyển đổi thành hạ 4 bậc quan và sa thải.
ĐỘNG VIÊN CON TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Ngày 26-2-1911, cụ Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, cùng Nguyễn Tất Thành xuống Mỹ Tho gặp ông Phan Chu Trinh (một người bạn có nhiều quan điểm giống ông).
Lúc này, cụ Phan Chu Trinh đang chuẩn bị sang Pháp, khi biết con trai ấp ủ nguyện vọng ra đi tìm đường cứu nước, Cụ Phó bảng phần lo nghĩ phụ giúp con chuẩn bị, phần thương con đến hốc hác, gầy rạc cả người.
Thấy sức khỏe cha ngày càng suy giảm, Nguyễn Tất Thành rất đau lòng, nhưng cũng chỉ bộc bạch được cùng cha vài câu ngắn ngủi trước lúc chia tay: “Cha đã hy sinh cho con suốt bao năm dài, nuôi dưỡng, dạy dỗ, dìu dắt con từng bước đường đời.
Nay đã từng này tuổi, chưa kịp báo quả thực là bất hiếu, con ra đi mà chưa yên lòng”. Nghe con chia sẻ, Cụ Phó bảng tuy vô cùng xúc động nhưng vẫn kìm lòng, nhẹ nhàng động viên con: “Nước mất thì lo mà cứu, con chỉ có một việc đó phải làm, cứu nước tức là hiếu với cha rồi đó. Con hãy mạnh dạn lên đường, cha chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn này để trông tin của con”.
Sau khi chia tay con trai, Cụ Phó bảng ở lại Sài Gòn một thời gian, dạy chữ nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ, rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Cụ sống ở miền Nam bằng nghề Đông y và nghề viết liễn đối cho dân chúng.
Cụ giúp nhiều chùa ở Nam bộ dịch, chú giải kinh, góp nhiều ý kiến cho phong trào chấn hưng Phật giáo do Hòa thượng Khánh Hòa khởi xướng. Cụ cũng có quan hệ với nhiều tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Khi biết tin Nguyễn Tất Thành đã sang Pháp, cụ Nguyễn Sinh Sắc yên tâm với nghề dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cứu người ở đất Nam kỳ lục tỉnh để ngày đêm ngóng tin con báo về.
Đất Nam kỳ lục tỉnh luôn là nơi nung nấu hào khí kháng Pháp sục sôi, nhất là khi đi ngang qua đất An Lục Long của tỉnh Tân An trước đây, Cụ đã dừng chân nghỉ lại nhà của sĩ phu họ Đỗ để tìm hiểu thế sự Nam kỳ.
Có thể nói, nghĩa khí hiếm thấy của Cụ Đồ Chiểu ở Bến Tre đã níu chân Cụ Phó bảng về sống ẩn dật ở đất “Chín rồng”, nơi Cụ Phó bảng chọn làm quê hương thứ hai chính là Đồng Tháp.
Tại đây, cụ biết và kết thân với khá nhiều danh sư yêu nước như các vị Hòa thượng: Khánh Hòa, Thiện Chiếu, Chí Thiền... và trở thành một trong những cố vấn cho cuộc vận động chấn hưng Phật giáo Việt Nam, khởi phát từ Nam kỳ lục tỉnh, nhưng do quá lao tâm, lao lực, cuộc sống khó khăn khiến Cụ Phó bảng lâm trọng bệnh.
Ngày 27-10 năm Kỷ Tỵ (nhằm 27-11-1929), Cụ Phó bảng trút hơi thở cuối cùng tại làng Hòa An, tỉnh Đồng Tháp, hưởng thọ 67 tuổi, khi vẫn chưa nhận được tin con báo về. Người con duy nhất chịu tang là cô con gái đầu Nguyễn Thị Thanh cũng đang chịu thân phận một nữ tù chính trị đang trong thời kỳ bị quản thúc.
Kể từ khi Cụ Phó bảng qua đời cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), nhằm tri ân công đức sinh thành, giáo dưỡng vĩ nhân Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho đất nước và nhân loại, nhiều đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Nam bộ đã ngã xuống để bảo vệ ngôi mộ của Cụ mà ngày nay là một trong những Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia: Khu Di tích Nguyễn Sinh Sắc và Di tích lịch sử Mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, phường Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp là Di tích quốc gia đặc biệt.
HỒNG LÊ
(tổng hợp)
Nguồn Đồng Tháp: https://baodongthap.vn/nguoi-cha-cua-vi-nhan-ho-chi-minh-a233888.html












