Quy định rõ tự chủ đại học, tránh hiểu 'tự chủ' là 'tự do tuyệt đối'

Theo Đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải (Đoàn Thanh Hóa), cần làm rõ mối quan hệ giữa quyền tự chủ của trường đại học với quyền quản lý nhà nước của Bộ và địa phương, tránh hiểu 'tự chủ' là 'tự do tuyệt đối'.

Hôm nay (20/11) - đúng Ngày Nhà giáo Việt Nam, Quốc hội đã dành thời gian thảo luận tại hội trường về một số luật, nghị quyết về giáo dục. Cụ thể là dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó, một số đại biểu quan tâm góp ý vấn đề tự chủ đại học.

Đại biểu Mai Văn Hải (Đoàn Thanh Hóa) thống nhất với dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) khi khẳng định nguyên tắc “tự chủ, tự chịu trách nhiệm đi đôi với trách nhiệm giải trình”. Nhưng theo Đại biểu, dự thảo thiếu tiêu chí định lượng để xác định mức độ tự chủ. Do vậy, Đại biểu đề nghị, cần có tiêu chí đánh giá năng lực tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, nhất là về công tác tài chính và công tác tổ chức nhân sự.

Đại biểu Mai Văn Hải. (Ảnh: quochoi.vn)

Đồng thời, bổ sung yêu cầu cơ sở tự chủ phải có hệ thống kiểm soát nội bộ, cơ chế kiểm toán độc lập và báo cáo giải trình định kỳ công khai; cần làm rõ mối quan hệ giữa quyền tự chủ của trường với quyền quản lý nhà nước của Bộ và địa phương, tránh hiểu “tự chủ” là “tự do tuyệt đối”.

Cũng theo Đại biểu Hải, điểm c khoản 2 Điều 14 quy định về: Cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm giải trình gắn với quyền tự chủ và những trách nhiệm sau đây: “nhà đầu tư phê duyệt đối với cơ sở giáo dục đại học tư thục, phù hợp với chiến lược giáo dục đại học”.

Nhằm đảm bảo nguyên tắc giải trình gắn với quyền tự chủ, phòng ngừa rủi ro, đồng thời để Nhà nước làm tốt cơ chế hỗ trợ cơ sở giáo dục đại học tư thục được quy định tại khoản 2 Điều 5 dự thảo Luật, Đại biểu đề nghị xem xét bổ sung quy định tại điểm c khoản 2 Điều 14 như sau: “Thực hiện sứ mạng, chiến lược phát triển được cơ quan quản lý trực tiếp phê duyệt đối với cơ sở giáo dục đại học công lập; nhà đầu tư phê duyệt đối với cơ sở giáo dục đại học tư thục, phù hợp với chiến lược giáo dục đại học; đồng thời nhà đầu tư có trách nhiệm công khai minh bạch năng lực tài chính, nguồn vốn đầu tư, tình hình thực hiện cam kết đầu tư và việc sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà đầu tư, bảo đảm tính bền vững và hiệu quả trong hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục”.

Đại biểu Nguyễn Quang Huân (Đoàn TP HCM) nhận thấy, Luật Giáo dục Đại học 2012 được sửa đổi 2018 đã mở rộng được quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học và nay phải tiếp tục sửa đổi để đáp ứng yêu cầu Nghị quyết 71, trong đó có yêu cầu về tạo đột phá trong giáo dục đào tạo, đồng thời xác nhận quyền tự chủ của cơ sở đào tạo.

Đại biểu Nguyễn Quang Huân. (Ảnh: quochoi.vn)

Trong dự thảo Luật, tại Điều 2, Điều 3 về giải thích từ ngữ, khoản 2 nêu rất rõ: “Quyền tự chủ là quyền được chủ động quyết định và chịu trách nhiệm giải trình theo quyết định của pháp luật về hoạt động chuyên môn, học thuật, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức nhân sự, tài chính và những lĩnh vực hoạt động khác”. Đại biểu Huân hoàn toàn đồng ý với giải thích từ ngữ này và cho rằng việc giải thích này đã bám sát được mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 71.

Dựa trên định hướng của Nghị quyết 71 và khái niệm trong dự thảo Luật, Đại biểu Huân thấy Điều 11 đang đưa toàn bộ “đại học đa lĩnh vực, đại học quốc gia, đại học vùng” vào chung một nhóm “cơ sở giáo dục đại học”. Tuy nhiên, cách định nghĩa này đang có vấn đề.

Bởi lẽ, các đại học quốc gia, đại học vùng thực chất là những “tổ hợp” gồm nhiều trường bên dưới. Nếu coi cả khối đó là một “cơ sở”, chúng ta sẽ bỏ quên đối tượng mà Nghị quyết 71 yêu cầu phải tăng cường tự chủ: đó là từng trường thành viên - những đơn vị trực tiếp tạo ra chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Thực tế đã chứng minh, nhiều trường trước đây rất mạnh, nhưng sau khi sáp nhập vào đại học vùng hoặc đại học quốc gia thì suy yếu, mất thương hiệu, giảm khả năng tự chủ tài chính. Một số trường thậm chí phải hạ chuẩn tuyển sinh vì không còn đủ sức hấp dẫn, từ đó lại càng khó tự chủ hơn. Nghĩa là sáp nhập cơ học không tạo ra đại học mạnh; ngược lại, còn làm những “tế bào khỏe” yếu đi.

Nếu mục tiêu của chúng ta là có đại học lọt top 100 thế giới thì điều cần làm không phải là gom trường lại với nhau, mà là tạo điều kiện để từng cơ sở thực sự mạnh lên từ nội lực. Giống như Bách khoa Hà Nội: mạnh trước rồi mới phát triển thành đại học, chứ không phải ghép lại để mong nó mạnh.

Do đó, khi xác định khái niệm “cơ sở giáo dục đại học”, chúng ta phải coi từng trường mới là đơn vị trung tâm. Nếu không, nguồn lực sẽ tiếp tục dồn lên “tập đoàn”, trong khi các đơn vị bên dưới - vốn là những tế bào tạo sinh lực - lại không được trao quyền và không thể phát triển.

Từ cách tiếp cận ấy, Đại biểu Huân đề nghị Quốc hội và cơ quan soạn thảo xem xét nghiêm túc câu chuyện đại học vùng có nên tiếp tục tồn tại hay không. Đại học quốc gia có thể giữ vai trò đặc thù, mang thương hiệu quốc gia có thể chưa cần quyết định vội. Nhưng riêng đại học vùng, nếu tiếp tục coi đó là “cơ sở” thì rõ ràng là không phù hợp tinh thần Nghị quyết 71, vốn yêu cầu tăng tự chủ ở cấp trường chứ không phải ở cấp “tổ hợp”.

Mai Hoàng

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/quy-dinh-ro-tu-chu-dai-hoc-tranh-hieu-tu-chu-la-tu-do-tuyet-doi.html