Ưu tiên điện gió ngoài khơi - Đột phá năng lượng xanh trong Quy hoạch không gian biển
Nghị định 65/2025/NĐ-CP và Quy hoạch quốc gia không gian biển đã mở ra cơ hội phát triển kinh tế biển, đặc biệt tạo hành lang pháp lý quan trọng để phát triển điện gió ngoài khơi đầy tiềm năng, không chỉ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng mà còn khẳng định vai trò của Việt Nam trong chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Thứ trưởng Bộ NN&MT Lê Minh Ngân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình Phan Phong Phú, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn đồng chủ trì hội thảo.
Ngày 6/6, tại Quảng Bình, Cục Biển và Hải Đảo Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thể chế, quy hoạch - Cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh”. Đây là sự kiện trong khuôn khổ Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025, nhằm trao đổi, cập nhật về chiến lược, chính sách, khung pháp lý, hiện trạng phát triển và bài học kinh nghiệm trong phát triển kinh tế biển.
Khẳng định tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) Lê Minh Ngân cho biết, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phát triển kinh tế biển là một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã vạch rõ tầm nhìn chiến lược và hệ thống giải pháp toàn diện nhằm hiện thực hóa khát vọng: “Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”.
Nghị định số 65/2025/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành đã tháo gỡ những điểm nghẽn lớn trong tiếp cận không gian biển, tạo hành lang pháp lý quan trọng để khảo sát, phát triển điện gió ngoài khơi - một lĩnh vực đầy tiềm năng, không chỉ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng mà còn khẳng định vai trò của Việt Nam trong chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Thứ trưởng Bộ NN&MT Lê Minh Ngân phát biểu khai mạc hội thảo.
“Trong bối cảnh này, việc triển khai đồng bộ Quy hoạch không gian biển quốc gia, cùng với các quy hoạch chuyên ngành như thủy sản, điện lực, năng lượng tái tạo... cần được đặt trong một tầm nhìn dài hạn, tích hợp, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển bền vững và chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước”, Thứ trưởng Lê Minh Ngân nhấn mạnh.
Thông tin đến hội thảo, TS. Phạm Thị Gấm, Trưởng phòng Chính sách - Pháp chế (Cục Biển và Hải đảo Việt Nam) đã phổ biến về những điểm mới của Nghị định 65, nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế cho phát triển kinh tế biển. Nghị định thể hiện tư duy đổi mới trong quản lý biển, chuyển từ “quản lý tập trung cứng nhắc” sang “quản lý linh hoạt, có giám sát”. Các tỉnh có biển giờ đây không chỉ là đơn vị phối hợp, mà trở thành chủ thể trực tiếp trong quyết định sử dụng không gian biển, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế biển theo đặc thù địa phương.

Quy hoạch không gian biển hướng tới phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ hệ sinh thái biển.
GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, Quy hoạch không gian biển quốc gia là lần đầu tiên Việt Nam ban hành một quy hoạch cấp quốc gia mang tính tích hợp, đa ngành và tổng thể nhằm cụ thể hóa định hướng phát triển trong Quy hoạch tổng thể quốc gia. Phạm vi quy hoạch bao gồm toàn bộ vùng đất ven biển thuộc 28 tỉnh, thành phố có biển; các đảo, quần đảo, vùng biển và vùng trời thuộc chủ quyền Việt Nam, tuân thủ pháp luật quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Quy hoạch hướng tới phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ hệ sinh thái biển, bảo tồn giá trị văn hóa, đồng thời ưu tiên phát triển 6 ngành kinh tế biển chủ lực: du lịch, hàng hải, khai thác dầu khí, nuôi trồng thủy sản, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới như dược liệu, y học, hóa học biển.

GS.TS Mai Trọng Nhuận: "Quy hoạch không gian biển quốc gia là lần đầu tiên Việt Nam ban hành một quy hoạch cấp quốc gia mang tính tích hợp, đa ngành".
“Đặc biệt, đây là Quy hoạch khung, mang tính dẫn dắt, dư địa mới cho các địa phương phát triển, nhất là trong quá trình sáp nhập sẽ tạo ra cơ hội khai thác sử dụng không gian biển”, GS.TS Mai Trọng Nhuận nhìn nhận.
Mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là phân bổ, quản lý hiệu quả không gian biển, giảm mâu thuẫn trong khai thác nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, khoa học - công nghệ và quốc phòng - an ninh. Trong đó, kinh tế biển thuần đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; GDP của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm 65-70%; thu nhập bình quân đầu người tại các địa phương ven biển cao hơn mặt bằng chung. Về môi trường, tối thiểu 6% diện tích vùng biển được bảo tồn; rừng ngập mặn được phục hồi và ô nhiễm, đặc biệt là rác thải nhựa, được kiểm soát chặt chẽ.
Tầm nhìn đến năm 2050 là hình thành không gian biển được quản lý hiệu quả, khai thác bền vững, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, quốc phòng, đối ngoại, bảo vệ môi trường và phát triển các ngành kinh tế biển hiện đại, thân thiện với hệ sinh thái. Các khâu đột phá bao gồm phát triển năng lượng tái tạo (ưu tiên điện gió ngoài khơi), hệ thống hạ tầng ven biển - đảo, logistics, du lịch biển xanh và kinh tế thủy sản tuần hoàn.

Quy hoạch xác định các khâu đột phá gồm phát triển năng lượng tái tạo (ưu tiên điện gió ngoài khơi), hệ thống hạ tầng ven biển - đảo, logistics, du lịch biển xanh và kinh tế thủy sản tuần hoàn.
Đại diện UNDP phân tích, Việt Nam có cơ hội trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu về biển. Trên thế giới, kinh tế biển là nền kinh tế đứng thứ 5 toàn cầu nhưng đang đứng trước nhiều thách thức. Từ kinh nghiệm của UNDP, muốn phát triển kinh tế biển cần có thể chế mạnh hiệu quả, đầu tư khoa học công nghệ tương xứng và xây dựng hạ tầng đồng bộ.
Nghiên cứu của UNDP cho thấy Việt Nam có tiềm năng 1.000 MW điện gió ngoài khơi. Đây là nguồn năng lượng phát thải CO2 thấp, tạo khối lượng việc làm chất lượng cao cho hàng chục nghìn người là trụ cột của kinh tế biển xanh. Để phát triển điện gió ngoài khơi trong nền kinh tế biển xanh, bền vững, đại diện UNDP khuyến nghị Việt Nam chuẩn bị tốt về hạ tầng, cơ chế đấu thầu, tăng cường hợp tác quốc tế.
Hội thảo cũng đã có các thảo luận xoay quanh 5 chủ đề chính: Đổi mới thể chế và chính sách khai thác không gian biển; Ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong kinh tế biển; Cơ hội - thách thức từ quá trình sáp nhập hành chính cấp tỉnh; Đề xuất các mô hình quản trị biển hiệu quả, thích ứng với bối cảnh mới; Thực hiện hiệu quả Quy hoạch thủy sản quốc gia và bảo tồn biển; phục hồi và bảo vệ hệ sinh thái, nâng cao giá trị chuỗi cung ứng thủy sản; Thúc đẩy hợp tác đa ngành và liên kết vùng, hợp tác toàn cầu trong phát triển kinh tế biển xanh; Thúc đẩy vai trò của kinh tế tư nhân liên kết với công đồng dân cư ven biển.